29/03/2024 21:55Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Bắc môn toả thược
北門鎖鑰

Tác giả: Phạm Đình Trọng - 范廷重

Thể thơ: Phú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 10/04/2022 13:15

 

Nguyên tác

嗚呼!
華夷望重;
社稷功高。

枚數宋朝巨俊;
幾如寇老辰髦。

何故不在中書,調鼎任商衡之重;
却乃遠臨沙塞,折衝當漢閫之勞。

畢竟:
見忌于人;
難平者事。

要盟恥甚於眞宗;
沮約仇深於王子。

澶淵下閑門束手,彼既膠宿怨之未舒;
泰山巔牒玉泥金,玆更慮奸謀之見沮。

故久淹河上之翶翔;
豈特爲朔方之桿禦。

Phiên âm

Ô hô!
Hoa di vọng trọng;
Xã tắc công cao.

Mai sổ Tống triều cự tuấn;
Kỷ như Khấu lão[1] thời mao.

Hà cố bất tại trung thư, điều đỉnh nhiệm Thương hành chi trọng;
Khước nãi viễn lâm sa tái, chiết xung đương Hán khổn chi lao.

Tất cánh:
Kiến kỵ vu nhân;
Nan bình giả sự.

Yêu minh sỉ thậm ư Chân Tông[2];
Tự ước cừu thâm ư Vương tử[3].

Thiền Uyên[4] hạ bế môn thúc thủ, bỉ ký giao túc oán chi vị thư;
Thái Sơn điên điệp ngọc nê kim, tư cánh lự gian mưu chi kiến tự.

Cố cửu yêm hà thượng chi cao tường;
Khởi đặc vị sóc phương chi hãn ngữ.

Dịch nghĩa

Than ôi!
Có vị danh vọng cao trọng đối với Trung Hoa và ngoại di;
Có công lớn đối với xã tắc.

Thử tính những nhân vật xuất sắc trong triều đình nhà Tống;
Mấy ai được như ông già Khấu Chuẩn.

Vậy mà cớ sao không ở trong toà trung thư điều hoà nồi vạc, cầm vững cán cân nhà Thương;
Lại phải ra ngoài ải cát xa xăm, chống chọi giặc mạnh, giữ gìn cửa ngăn nhà Hán.

Chẳng qua:
Vì bị người ghen ghét,
Gặp việc khắt khe.

Vua Chân Tông lấy làm xấu hổ việc cùng giặc giảng hoà,
Vương Khâm Nhược lấy làm tức tối việc cản trở ý muốn của hắn.

Dưới thành Thiền Uyên đóng cửa bó tay, Khâm Nhược chưa quên mối hờn sai hắn ra chống giữ ở đấy;
Trên đỉnh Thái Sơn sắp bày bàn tế, nay hắn lại sợ ngăn trở mưu gian.

Vì thế mà ông lửng lơ mãi ở trên sông;
Há phải cốt vì việc chống giữ phương bắc.

Bản dịch của Đạm Nguyên

Than ôi!
Công to cùng xã tắc;
Giá trọng khắp ngoài trong?

Kể các bậc tuấn hiền triều Tống;
Đã ai bằng đại lão Khấu công.

Sao chẳng để ở trung thư, chức hệ trọng thương hành điều đỉnh?
Lại đưa ra nơi quan ải, việc gian lao hán khổn triết xung.

Chẳng qua!
Người những ghét ghen;
Đời hay khe khắt.

Phải thề cùng giặc, vua Tống đã thẹn thùng;
Trái ước mang hờn, chàng Vương còn thắc mắc;

Dưới Thiền Uyên bó tay đóng cửa, hận xưa vẫn đó chưa nguôi;
Trên đỉnh Thái phong ngọc đắp vàng, mưu dối còn e bị mắc.

Nên mới để mãi ông quanh quẩn ven sông;
Chứ phải đâu vì việc chống ngăn ải bắc.
Bài phú này được làm khi tác giả còn đi học.

“Bắc môn toả thược” vốn là chữ của Đinh Tiên Hoàng, nghĩa đen là đóng cửa bắc đề đề phòng gió bấc thổi, hàm ý căn dặn luôn phải đề phòng hiểm hoạ giặc Tàu. Đền thờ ở Hoa Lư, Ninh Bình quê ông còn đề bốn chữ này.

[1] Khấu Chuẩn 寇準 (961-1023) tự Bình Trọng 平仲, quê ở Hạ Khuê, Hoa Châu (nay là Vị Nam, Thiểm Tây), quan tể tướng đời Tống Chân Tông nhà Bắc Tống, chủ trương chống giặc Liêu.
[2] Tống Chân Tông 宋真宗 (968-1022).
[3] Vương Khâm Nhược, thuộc phe chủ hoà với giặc Liêu, lập kế gièm pha và ly gián để hãm hại Khấu Chuẩn.
[4] Tên sông ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc, cũng là tên địa phương có sông này chảy qua.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Phạm Đình Trọng » Bắc môn toả thược