25/04/2024 13:58Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hồi 01

Tác giả: Nguyễn Du - 阮攸

Thể thơ: Lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 29/06/2005 11:06

 

Mộng đào mà sinh, bạc mệnh triệu trưng hoa nửa úa
Tiếng đàn như oán, Đoạn tràng phổ lựa khúc Tân Thanh.
(Câu 1-38)


Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau[1].
Trải qua một cuộc bể dâu[2].
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
5. Lạ gì bỉ sắc tư phong[3],
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen[4].
Cảo thơm[5] lần giở trước đèn,
Phong tình[6][7] lục[8] còn truyền sử xanh[9].
Rằng: năm Gia Tĩnh[10] triều Minh,
10. Bốn phương phẳng lặng, hai kinh[11] vững vàng.
Có nhà viên ngoại[12] họ Vương,
Gia tư[13] nghĩ[14] cũng thường thường bậc trung,
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan[15] là chữ[16], nối dòng nho gia.
15. Đầu lòng hai ả tố nga[17],
Thuý Kiều[18] là chị, em là Thuý Vân[19].
Mai cốt cách, tuyết tinh thần[20].
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
20. Khuôn trăng[21] đầy đặn, nét ngài[22] nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt[23], đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc vẫn là phần hơn.
25. Làn thu thuỷ, nét xuân sơn[24],
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành[25],
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai[26].
Thông minh vốn sẵn tính trời,
30. Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung, thương[27] làu bậc[28] ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương[29].
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh[30]” lại càng não nhân[31].
35. Phong lưu rất mực hồng quần[32],
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê[33]
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông[34] ong bướm đi về mặc ai.
[1] Người có tài thì thường gặp mệnh bạc, hình như tài, mệnh ghét nhau, xung khắc với nhau, hễ được hơn cái này thì phải kém cái kia.
[2] Trong văn chương cổ thường dùng “bãi bể nương dâu” (thương hải tang điền 滄海桑田), hoặc nói tắt là “bể dâu” (tang thương 桑滄) để chỉ những sự biến đổi thăng trầm của cuộc đời.
[3] Cái kia kém thì cái này hơn, nghĩa là được hơn điều này thì bị kém điều kia.
[4] Tạo hoá ghen với người đàn bà đẹp, ý nói người đàn bà đẹp thường gặp cảnh ngộ không hay.
[5] Cảo thơm hay kiểu thơm, do chữ “phương cảo” 芳稿, nghĩa là pho sách thơm pho sách hay.
[6] Chỉ những chuyện ái tình trai gái.
[7] Một số bản chép là “cổ”.
[8] Ghi chép. “Có lục” tức là có được ghi chép.
[9] Thời xưa, khi chưa có giấy, người ta chép sử bằng cách khắc chữ vào những thanh trúc, cật trúc màu xanh, nên gọi là “thanh sử” 青史.
[10] Niên hiệu vua Thế Tông nhà Minh (1522-1566).
[11] Tức Bắc Kinh và Nam Kinh (Trung Quốc).
[12] Viên ngoại 員外 nguyên là một chức quan ngoại ngạch giữ việc sổ sách tại các bộ, đặt ra từ thời Lục triều, để cho những người giàu được bỏ tiền ra mua. Về sau, viên ngoại dần dần trở thành một hư hàm, chỉ những người giàu sang được tôn trọng. Ở đây được dùng theo nghĩa này.
[13] Gia tư 家資 là của cải trong nhà, cũng như gia sản.
[14] Từ cũ nghĩa là ông ấy.
[15] Tên chữ Hán là 王觀.
[16] Theo lễ nghi Trung Quốc xưa, người nào cũng có danh là tên chính, và tự là tên chữ. Danh đặt từ khi sinh ra, còn tự thì đến khi hai mươi tuổi mới dựa theo danh mà đặt ra.
[17] Tố nga 素娥 cũng như tố nữ, chỉ người con gái đẹp.
[18] Tên chữ Hán là 翠翹.
[19] Tên chữ Hán là 翠雲.
[20] Thuý Kiều và Thuý Vân, mỗi người có một vẻ riêng ví như mai có “cốt cách” của mai, tuyết có “tinh thần” của tuyết.
[21] Khuôn mặt đầy đặn, tròn trĩnh, xinh xắn như mặt trăng.
[22] Nét lông mày.
[23] Thốt: tiếng cổ có nghĩa là nói. Hoa cười, ngọc thốt: cười tươi như hoa, nói đẹp như ngọc.
[24] Thu thuỷ: nước mùa thu; xuân sơn: núi mùa xuân. Câu nói này ví mắt Kiều trong sáng như làn nước mùa thu, lông mày xinh đẹp như rặng núi mùa xuân.
[25] Bài ca của Lý Diên Niên đời Hán, ca ngợi sắc đẹp của một mĩ nhân có câu: “Nhất cố khuynh nhân thành, Tái cố khuynh nhân quốc” (Quay lại nhìn một lần thì làm nghiêng thành người, Quay lại nhìn lần nữa thì làm nghiêng nước người). Do đó, người sau thường dùng chữ nghiêng nước (khuynh quốc), nghiêng thành (khuynh thành) để chỉ sắc đẹp phi thường của người phụ nữ. Hai chữ một hai trong câu này dịch mấy chữ “nhất cố, tái cố” ở trên.
[26] Câu này có nghĩa là về “sắc” thì chỉ có một mình Kiều là nhất, về “tài” thì hoạ may ra thì còn có người thứ hai nữa.
[27] Hai âm đứng đầu ngũ âm trong cung bậc nhạc cổ của Trung Quốc: cung 宮, thương 商, giốc 角, truỷ 徵, vũ 羽.
[28] Làu thông cung bậc.
[29] Hồ cầm là một loại đàn tỳ bà, có nguồn gốc từ người Hồ (Trung Quốc). Hồ cầm một trương: một cây đàn Hồ cầm.
[30] Tên bản đàn do Thuý Kiều sáng tác. “Bạc mệnh” nghĩa là số mệnh bạc bẽo, mỏng manh.
[31] Làm cho người ta nghe mà não lòng.
[32] Cái quân màu hồng, hai chữ này được dùng để chỉ nữ giới.
[33] Đến tuổi cài trâm (kê nghĩa là cài trâm). Theo lễ cổ Trung Quốc, con gái 15 tuổi đến thì hứa gả chồng cho nên bắt đầu búi tóc cài trâm.
[34] Bức tường ở phía đông. Thời xưa con gái thường ở nhà phía đông. Đây dùng chữ “tường đông” để chỉ chỗ có con gái đẹp ở.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Du » Hồi 01