27/04/2024 05:44Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Đông thú hành
冬狩行

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi Vanachi vào 27/01/2009 19:37

 

Nguyên tác

君不見東川節度兵馬雄,
校獵亦似觀成功。
夜發猛士三千人,
清晨合圍步驟同。
禽獸已斃十七八,
殺聲落日回蒼穹。
幕前生致九青兕,
駱駝礨峞垂玄熊。
東西南北百里間,
仿佛蹴踏寒山空。
有鳥名鴝鵒,
力不能高飛逐走蓬。
肉味不足登鼎俎,
何為見羈虞羅中。
春搜冬狩侯得同,
使君五馬一馬驄。
況今攝行大將權,
號令頗有前賢風。
飄然時危一老翁,
十年厭見旌旗紅。
喜君士卒甚整肅,
為我回轡擒西戎。
草中狐兔盡何益,
天子不在咸陽宮。
朝廷雖無幽王禍,
得不哀痛塵再蒙。
嗚呼,得不哀痛塵再蒙。

Phiên âm

Quân bất kiến Đông Xuyên tiết độ binh mã hùng,
Hiệu liệp diệc tự quan thành công.
Dạ phát mãnh sĩ tam thiên nhân,
Thanh thần hợp vi bộ sậu đồng.
Cầm thú dĩ tệ thập thất bát,
Sát thanh lạc nhật hồi thương khung.
Mạc tiền sinh trí cửu thanh huỷ,
Lạc đà lỗi quỵ thuỳ huyền hùng.
Đông tây nam bắc bách lý gian,
Phảng phật xúc đạp hàn sơn không.
Hữu điểu danh cù dục,
Lực bất năng cao phi trục tẩu bồng.
Nhục vị bất túc đăng đỉnh trở,
Hà vị kiến ky ngu la trung.
Xuân sưu đông thú hầu đắc đồng,
Sứ quân ngũ mã nhất mã thông.
Huống kim nhiếp hành đại tướng quyền,
Hiệu lệnh pha hữu tiền hiền phong.
Phiêu nhiên thì nguy nhất lão ông,
Thập niên yếm kiến tinh kỳ hồng.
Hỉ quân sĩ tốt thậm chỉnh túc,
Vị ngã hồi bí cầm Tây Nhung.
Thảo trung hồ thố tận hà ích,
Thiên tử bất tại Hàm Dương[1] cung.
Triều đình tuy vô U vương[2] hoạ,
Đắc bất ai thống trần tái mông.
Ô hô, đắc bất ai thống trần tái mông.

Dịch nghĩa

Người chẳng thấy: Ngựa và lính của tiết độ vùng Đông Xuyên hào hùng sao!
Đi săn bắn mà cứ tưởng như lập được công ấy!
Ban đêm ba ngàn quân tinh nhuệ ra đi,
Sáng sớm hợp lại bao vây một vùng một cách rất quy củ.
Chim muông đã chết đến bảy tám phần mười,
Tiếng reo hò giết giết đến trời lặn mà còn vang trên không.
Trước dinh trưng bầy trâu rừng, tê ngưu bị bắt sống,
Lạc đà lêu nghêu treo xác gấu đen.
Cả bốn phía rộng đến trăm dặm vuông,
Lần mò tóc bù xù trong vùng núi lạnh.
Có loại chim tên là cù dục,
Sức yếu đến nỗi không bay cao để đuổi kịp ngọn cỏ bồng.
Vị thịt nó không xứng để cho vào nồi,
Mà tại sao cũng thấy vướng vào lưới của quan kiểm lâm?
Sưu vào mùa xuân thú vào mùa đông, quan hậu (Chương Di) cứ dùng bừa,
Sứ quân có xe năm ngựa, cưỡi ngựa giống quý.
Huống chi nay ông tạm giữ quyền của một đại tướng,
Ông có uy phong của các vị tiền bối khi ban lệnh.
Một lão già lênh đênh như tôi trong thời nguy khốn,
Mười năm chán ngán phải nhìn thấy cờ đỏ của quân làm phản.
Tôi mừng thấy binh sĩ của ông rất có kỷ luật,
Hãy vì tôi mà mang quân đi đánh Tây Nhung.
Chứ dẹp hết đám cáo thỏ trong bụi kia thì có lợi gì?
Vua không còn ở trong cung Hàm Dương nữa.
Tuy rằng triều đình nay chưa bị cái hoạ như vua U vương,
Làm sao mà khỏi đau buồn khi cát bụi lại tung.
Than ôi! Làm sao mà khỏi đau buồn khi cát bụi lại tung!

Bản dịch của Trần Huy Liệu

Anh không thấy: Quan tiết độ sứ Đông Xuyên có một đội binh mã oai hùng,
Quây săn có vẻ được thành công.
Ba nghìn mãnh sĩ đêm ra đi,
Sáng sớm bao vây, nhịp điệu chung.
Chim muông đã chết mười bảy, tám,
Trời lặn, tiếng hò vang trên không.
Bắt sống chín con tê ngưu cái,
Gấu đen, lạc đà tải trên lưng.
Đông tây nam bắc khoảng trăm dặm,
Hình như không một chỗ lọt vòng.
Có con chim sáo sậu:
Sức không bay được cao,
Thịt không đủ bỏ vào vạc vào chảo,
Vậy mà cũng không thoát khỏi lưới tròng.
Năm ngựa, một con điểm sắc tro,
Xuân, đông săn bắn khác nào vua.
Hôm nay lại nắm quyền đại tướng,
Hiệu lệnh, phong độ giống “hiền” xưa.
Thời buổi loạn ly, một ông lão,
Cờ xí mười năm thấy chán rồi.
Mừng ngài: sĩ tốt rất nghiêm chỉnh,
Hãy quay về giết giặc đi thôi.
Cáo thỏ lùng săn có ích không?
Hàm Dương vua đã vắng trong cung.
Dầu không như kiếp U vương nữa,
Hai chuyến long đong những cực lòng.
Chao ôi, hai chuyến long đong những cực lòng.
(Năm 763)

Lời tự: "Thì Tử Châu chế sử Chương Di kiêm thị ngự sử lưu hậu Đông Xuyên" (Lúc đó chế sử Tử Châu là Chương Di kiêm thị ngự sử, giữ chức lưu hậu ở Đông Xuyên).

[1] Ở tây bắc Trường An. Kinh đô Trường An lúc đó bị Thổ Phồn vây hãm, vua sơ tán vào Thiểm Châu.
[2] Vua nhà Chu, bị Tây Nhung giết ở chân núi Ly Sơn.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Đông thú hành