06/10/2024 18:23Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 29/03/2015 17:53
Nguyên tác
一室他鄉遠,
空林暮景懸。
正愁聞塞笛,
獨立見江船。
巴蜀來多病,
荊蠻去幾年。
應同王粲宅,
留井峴山前。
Phiên âm
Nhất thất tha hương viễn,
Không lâm mộ cảnh huyền.
Chính sầu văn tái địch,
Độc lập kiến giang thuyền.
Ba Thục lai đa bệnh,
Kinh man khứ kỷ niên.
Ưng đồng Vương Xán[1] trạch,
Lưu tỉnh Hiện sơn tiền.Dịch nghĩa
Quê người nơi xa có một căn nhà,
Chốn rừng vắng cảnh chiều bao phủ.
Đang lúc buồn lại nghe tiếng sáo nơi biên giới,
Một mình đứng trông thuyền trên sông.
Từ Ba Thục tới trong người đã sẵn nhiều bệnh,
Vùng Kinh hoang sơ này năm nào ra đi?
Muốn sánh ngang với nhà của Vương Xán,
Ở lại ngay giếng làm nhà trước núi Hiện.Bản dịch của Phạm Doanh
Một buồng quê người xa,
Rừng hoang cảnh chiều nổi.
Nghe sáo biên, đang buồn,
Thấy thuyền sông, đứng dõi.
Năm nào, Kinh man rời,
Bệnh lắm, Ba Thục tới.
Nhà Vương Xán muốn như,
Trước núi Hiện dựng mái.
(Năm 761)
[1] Người nước Nguỵ thời Tam Quốc, trước nương nhờ Lưu Biểu ở Kinh Châu, sau đó làm quan với nhà Nguỵ tới chức thị trung. Là một trong Kiến An thất tử. Khi ở Kinh Châu, thường ở trên lầu cao, có bài Đăng lâu phú tỏ ý nhớ nhà nổi tiếng.