25/04/2024 12:06Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Nguyệt (Tứ canh sơn thổ nguyệt)
月(四更山吐月)

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi hongha83 vào 15/02/2012 09:14

 

Nguyên tác

四更山吐月,
殘夜水明樓。
塵匣元開鏡,
風簾自上鉤。
兔應疑鶴發,
蟾亦戀貂裘。
斟酌姮娥寡,
天寒耐九秋。

Phiên âm

Tứ canh sơn thổ nguyệt,
Tàn dạ thuỷ minh lâu.
Trần hạp nguyên khai kính,
Phong liêm tự thượng câu.
Thố[1] ứng nghi hạc phát,
Thiềm diệc luyến điêu cừu.
Châm chước Hằng Nga[2] quả,
Thiên hàn nại cửu thu.

Dịch nghĩa

Canh tư, núi nhả mặt trăng nhô lên,
Đêm gần tàn, gác soi bóng bên sông.
Trăng như gương mới lấy khỏi hộp che bụi,
Gió cuốn rèm như lưỡi liềm đang lên cao.
Lông thỏ trắng ngỡ như lông hạc,
Cóc như thèm áo lông điêu.
Quả phụ Hằng Nga đang cân nhắc lỗi của mình,
Ta đã chịu cơ hàn chín mùa thu rồi.

Bản dịch của Nhượng Tống

Đêm lụn, sông soi gác,
Canh tư núi nhả trăng.
Thỏ ngờ tóc bạc hẳn,
Thiềm mến áo cừu chăng?
Mành gió neo cong vắt,
Hộp trần gương sáng trưng.
Chị Hằng thương phận goá,
Thu lạnh chịu nằm dưng.
Bài này làm năm 767. Lúc đó, vì chán cảnh Thành Đô, ông đưa gia quyến xuống thuyền rời thảo đường đến ngụ cư tại Quỳ châu. Tính từ năm ông thôi làm quan cho tới lúc này, thì ông đã lưu lạc chín năm.

[1] Theo truyền thuyết, trong mặt trăng có con thỏ giã thuốc.
[2] Theo truyền thuyết, Hằng Nga ăn cắp thuốc tiên của chồng là Hậu Nghệ rồi trốn lên mặt trăng ở.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Nguyệt (Tứ canh sơn thổ nguyệt)