26/04/2024 23:18Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tiêu Trọng Khanh thê - Đệ tứ đoạn
焦仲卿妻-第四段

Tác giả: Khuyết danh Trung Quốc

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Hán
Đăng bởi Vanachi vào 16/11/2008 08:45

 

Nguyên tác

阿母謂阿女:
「適得府君書,
明日來迎汝。
何不作衣裳?
莫令事不舉!」
阿女默無聲,
手巾掩口啼,
淚落便如瀉。
移我琉璃榻,
出置前窗下。
左手持刀尺,
右手執綾羅。
朝成繡夾裙,
晚成單羅衫。
晻晻日欲暝,
愁思出門啼。

府吏聞此變,
因求假暫歸。
未至二三里,
摧藏馬悲哀。
新婦識馬聲,
躡履相逢迎。
悵然遙相望,
知是故人來。
舉手拍馬鞍,
嗟嘆使心傷:
「自君別我後,
人事不可量。
果不如先愿,
又非君所詳。
我有親父母,
逼迫兼弟兄。
以我應他人,
君還何所望!」
府吏謂新婦:
「賀卿得高遷!
磐石方且厚,
可以卒千年。
蒲葦一時紉,
便作旦夕間。
卿當日勝貴,
吾獨向黃泉。」
新婦謂府吏:
「何意出此言!
同是被逼迫,
君爾妾亦然。
黃泉下相見,
勿違今日言!」
執手分道去,
各各還家門。
生人作死別,
恨恨那可論!
念與世間辭,
千萬不復全。

府吏還家去,
上堂拜阿母:
「今日大風寒,
寒風摧樹木,
嚴霜結庭蘭。
兒今日冥冥,
令母在後單。
故作不良計,
勿復怨鬼神!
命如南山石,
四體康且直。」
阿母得聞之,
零淚應聲落:
「汝是大家子,
仕宦於臺閣。
慎勿為婦死,
貴賤情何薄?
東家有賢女,
窈窕艷城郭。
阿母為汝求,
便復在旦夕。」
府吏再拜還,
長嘆空房中,
作計乃爾立。
轉頭向戶裏,
漸見愁煎迫。

其日牛馬嘶,
新婦入青廬。
庵庵黃昏後,
寂寂人定初。
「我命絕今日,
魂去尸長留。」
攬裙脫絲履,
舉身赴清池。
府吏聞此事,
心知長別離。
徘徊庭樹下,
自挂東南枝。

兩家求合葬,
合葬華山傍。
東西植松柏,
左右種梧桐。
枝枝相覆蓋,
葉葉相交通。
中有雙飛鳥,
自名為鴛鴦,
仰頭相向鳴,
夜夜達五更。
行人駐足聽,
寡婦起彷徨。
多謝後世人,
戒之慎勿忘。

Phiên âm

A mẫu vị a nữ:
“Thích[1] đắc phủ quân thư,
Minh nhật lai nghênh nhữ.
Hà bất tác y thường?
Mạc linh sự bất cử![2]
A nữ mặc vô thanh,
Thủ cân yểm khẩu đề,
Lệ lạc tiện như tả.
Di ngã lưu ly tháp,
Xuất trí tiền song hạ.
Tả thủ trì đao xích,
Hữu thủ chấp lăng la.
Triêu thành tú giáp quần,
Vãn thành đơn la sam.
Ám ám nhật dục minh,
Sầu tư xuất môn đề.

Phủ lại văn thử biến,
Nhân cầu giá tạm quy.
Vị chí nhị tam lý,
Tồi tàng mã bi ai.
Tân phụ thức mã thanh,
Nhiếp lý tương phùng nghênh.
Trướng nhiên dao tương vọng,
Tri thị cố nhân lai.
Cử thủ phách mã yên,
Ta thán sử tâm thương:
“Tự quân biệt ngã hậu,
Nhân sự bất khả lường.
Quả bất như tiên nguyện,
Hựu phi quân sở tường.
Ngã hữu thân phụ mẫu[3],
Bức bách kiêm đệ huynh[4].
Dĩ ngã ứng tha nhân,
Quân hoàn hà sở vọng!”
Phủ lại vị tân phụ:
“Hạ khanh đắc cao thiên!
Bàn thạch phương thả hậu,
Khả dĩ tốt thiên niên.
Bồ vi nhất thì nhận,
Tiện tác đán tịch gian.
Khanh đương nhật thắng quý,
Ngô độc hướng hoàng tuyền.”
Tân phụ vị phủ lại:
“Hà ý xuất thử ngôn!
Đồng thị bị bức bách,
Quân nhĩ[5] thiếp diệc nhiên.
Hoàng tuyền hạ tương kiến,
Vật vi kim nhật ngôn!”
Chấp thủ phân đạo khứ,
Các các hoàn gia môn.
Sinh nhân tác tử biệt,
Hận hận na khả luân (luận)!
Niệm dữ thế gian từ,
Thiên vạn bất phục toàn.

Phủ lại hoàn gia khứ,
Thượng đường bái a mẫu:
“Kim nhật đại phong hàn,
Hàn phong tồi thụ mộc,
Nghiêm sương kết đình lan.[6]
Nhi kim nhật minh minh[7],
Linh mẫu tại hậu đơn.
Cố tác bất lương kế,
Vật phục oán quỷ thần![8]
Mệnh như Nam sơn thạch,
Tứ thể[9] khang thả trực.”
A mẫu đắc văn chi,
Linh lệ ứng thanh lạc:
“Nhữ thị đại gia tử,
Sĩ hoạn ư đài các[10].
Thận vật vị phụ tử,
Quý tiện tình hà bạc?
Đông gia hữu hiền nữ,
Yểu điệu diễm thành quách.
A mẫu vị nhữ cầu,
Tiện phục tại đán tịch.”
Phủ lại tái bái hoàn,
Trường thán không phòng trung,
Tác kế nãi nhĩ[11] lập.
Chuyển đầu hướng hộ lý[12],
Tiệm kiến sầu tiên bách.

Kỳ nhật ngưu mã tê[13],
Tân phụ nhập thanh lư[14].
Am am hoàng hôn hậu,
Tịch tịch nhân định sơ[15].
“Ngã mệnh tuyệt kim nhật,
Hồn khứ thi trường lưu.”
Lãm quần thoát ty lý,
Cử thân phó thanh trì.
Phủ lại văn thử sự,
Tâm tri trường biệt ly[16].
Bồi hồi đình thụ hạ,
Tự quải đông nam chi.

Lưỡng gia cầu hợp táng,
Hợp táng Hoa Sơn[17] bàng.
Đông tây thực tùng bách,
Tả hữu chủng ngô đồng.
Chi chi tương phúc cái,
Diệp diệp tương giao thông.
Trung hữu song phi điểu,
Tự danh vi uyên ương,
Ngưỡng đầu tương hướng minh,
Dạ dạ đạt ngũ canh.
Hành nhân trú túc thính,
Quả phụ[18] khởi bàng hoàng.
Đa tạ hậu thế nhân,
Giới chi thận vật vong.

Bản dịch của Điệp luyến hoa

Mẹ nhìn con gái hỏi:
“Mới nhận thư Thái thú,
Ngày mai tới đón con.
Sao không lo quần áo?
Đừng để chẳng chu toàn!”
Con gái không đáp lại,
Khăn tay ngăn tiếng khóc,
Lệ chảy nối thành dòng.
Giường lưu ly thấm ướt,
Tới bên cửa sổ phòng.
Tay trái cầm dao thước,
Tay phải cắt lụa trơn.
Sáng xong quần gấm kép,
Chiều thành áo tơ đơn.
Âm u trời dần tối,
Ra cổng rầu rĩ than.

Phủ lại nghe có chuyện,
Xin nghỉ phép về thăm.
Còn cách hai ba dặm,
Đau lòng ngựa hí rên.
Nhận ra tiếng ngựa quen,
Vợ nhón giày ra đón.
Từ xa trông buồn bã,
Đích thị là cố nhân.
Giơ tay vỗ yên ngựa,
Kêu than xiết thương tâm:
“Từ cùng chàng ly biệt,
Muôn sự khó tính thông.
Không như xưa nguyện ước,
Cũng chẳng giống chàng mong.
Phải nghe theo lời mẹ,
Bức bách cùng anh trai.
Đem thiếp gả người khác,
Chàng về mong gì đây!”
Phủ lại đáp lời vợ:
“Mừng nàng được cao bay!
Tảng đá vuông vững chắc,
Ngàn năm chẳng đổi thay.
Cỏ lau chỉ có lúc,
Sớm chiều hết dẻo dai.
Nay nàng thành quyền quý,
Suối vàng độc thân này!”
Vợ trả lời phủ lại:
“Chàng nói sao đắng cay!
Cùng là thân bức bách,
Quyết liều với chàng đây.
Dưới suối vàng gặp mặt,
Chớ trái lời hôm nay!”
Cầm tay đôi ngả rẽ,
Mỗi kẻ một lối về.
Người sống mà tử biệt,
Lòng hận biết sao bàn!
Nguyện từ chốn thế gian,
Vạn ngàn không trở lại.

Về đến nhà, phủ lại,
Lên nhà bái gặp mẹ:
“Trời hôm nay gió hàn,
Cây cối đều gãy sạch,
Sương nặng đẫm lan can.
Lòng con càng u ám,
Để mẹ lại một thân.
Cố gây việc không tốt,
Chẳng nên oán quỷ thần.
Mạng như đá núi Nam,
Thân thể còn vững chắc.”
Mẹ nghe được lời thưa,
Cất tiếng, lệ lác đác:
“Mày con nhà thế gia,
Thượng thư nơi đài các.
Chớ vì vợ quên mình,
Giàu nghèo, tình đâu bạc?
Mé đông có gái lành,
Đẹp khắp thành khôn sánh.
Vì con mẹ mối mai,
Sớm tối người sẽ đáp.”
Phủ lại vái về xong,
Vắn dài giữa phòng không,
Kế hoạch đà như vậy.
Quay đầu lên nhà lại,
Sầu uất cứ dâng đầy.

Hôm ấy trâu ngựa kêu,
Người vợ trong buồng thêu.
U ám trời xuống bóng,
Tịch mịch đêm về khuya.
“Mạng ta hôm nay hết,
Hồn đi để xác này.”
Vén quần tháo đôi giày,
Nhìn ao trong tự kết.
Phủ lại nghe sự việc,
Thấu hiểu, mãi xa nhau.
Cây bên đình bước tới,
Hướng cành đông nam treo.

Hai nhà xin cùng táng,
Chôn cất cạnh Hoa Sơn.
Đông tây trồng tùng bách,
Phải trái trồng ngô đồng.
Cành cành cùng che chở,
Lá lá cùng tiếp thông.
Giữa có đôi chim ở,
Gọi là chim uyên ương.
Ngẩng đầu nhìn nhau hót,
Đêm đêm hết năm canh.
Người qua dừng nghe tiếng,
Quả phụ lại bàng hoàng.
Đa tạ người hậu thế,
Răn thân, khắc ghi lòng.
Đoạn 4 kể từ khi Lan Chi bị buộc tái giá đến khi nàng và Trọng Khanh tự tử.

[1] Vừa mới.
[2] Câu này ý nói chớ để cho đã nhận lời rồi mà lại không chịu chu toàn.
[3] Mẹ (phức từ).
[4] Anh trai (phức từ).
[5] Như vậy. Câu này ý nói Trọng Khanh quyết định xuống suối vàng thì Lan Chi cũng mong đi theo.
[6] Những lời này Trọng Khanh ám chỉ tình cảm của mình và Lan Chi bị bức bách.
[7] Mặt trời lặn tối tăm, ám chỉ sinh mệnh mình sắp hết.
[8] Hai câu ý nói sự việc đều do ý không tốt của mẹ, chớ nên oán trách quỷ thần.
[9] Tứ chi, ám chỉ thân thể.
[10] Tức thượng thư đài, đời Hán là nơi làm việc của các quan giúp cho vua. Câu này ý nói Trọng Khanh là con cháu nhà quan lớn, có tiền đồ rộng mở.
[11] Như vậy. Câu này ý nói kể hoạch tự tử đã xác định như vậy rồi.
[12] Câu này ý nói Trọng Khanh trở lại nhìn mẹ lần cuối.
[13] Tiếng trâu ngựa kêu, có thể là về chuồng lúc cuối ngày hoặc do gặp người thân.
[14] Buồng dùng vải xanh quây chung quanh để làm nơi phu thê giao bái trong hôn lễ.
[15] Lúc mọi người mới đi nghỉ.
[16] Câu này ý nói Trọng Khanh khi hiểu thấu nỗi lòng của người vợ thì đã mãi xa nhau.
[17] Có lẽ là một núi nhỏ ở quận Lư Giang.
[18] Chỉ Lan Chi đã chôn ở đó.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Khuyết danh Trung Quốc » Tiêu Trọng Khanh thê - Đệ tứ đoạn