16/04/2024 11:17Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tống tòng đệ Á phó Hà Tây phán quan
送從弟亞赴河西判官

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 10/01/2015 18:37

 

Nguyên tác

南風作秋聲,
殺氣薄炎熾。
盛夏鷹隼擊,
時危異人至。
令弟草中來,
蒼茫請論事。
詔書引上殿,
奮舌動天意。
兵法五十家,
爾腹為篋笥。
應對如轉丸,
疏通略文字。
經綸皆新語,
足以正神器。
宗廟尚為灰,
君臣俱下淚。
崆峒地無軸,
清海天軒輊。
西極最瘡痍,
連山暗烽燧。
帝曰大布衣,
藉卿佐元帥。
坐看清流沙,
所以子奉使。
歸當再前席,
適遠非虛試。
須存武威郡,
為畫長久利。
孤峰石戴驛,
快馬金纏轡。
黃羊飫不膻,
魯酒多還醉。
踴躍常人情,
慘澹苦士志。
安邊敵何有,
反正計始遂。
吾聞駕鼓車,
不合用騏驥。
龍吟回其頭,
夾輔待所致。

Phiên âm

Nam phong tác thu thanh,
Sát khí bạc viêm chúc.
Thịnh hạ ưng chuẩn kích,
Thì nguy dị nhân chí.
Lệnh đệ thảo trung lai,
Thương mang thỉnh luận sự.
Chiếu thư dẫn thượng điện,
Phấn thiệt động thiên ý.
Binh pháp ngũ thập gia,
Nhĩ phúc vi khiếp tứ.
Ứng đối như chuyển hoàn,
Sớ thông lược văn tự.
Kinh luân giai tân ngữ,
Túc dĩ chính thần khí.
Tông miếu thượng vi hôi,
Quân thần câu há lệ.
Không Đồng địa vô trục,
Thanh Hải thiên hiên chí.
Tây cực tối sang di,
Liên sơn ám phong toại.
Đế viết đại bố y[1],
Tạ khanh tá nguyên suý.
Toạ khan thanh lưu sa,
Sở dĩ tử phụng sứ.
Qui đương tái tiền tịch,
Thích viễn phi hư thí.
Tu tồn Vũ Uy quận,
Vi hoạch trường cửu lị.
Cô phong thạch đới dịch,
Khoái mã kim triền bí.
Hoàng dương ứ bất thiên,
Lỗ tửu đa hoàn tuý.
Dũng dược thường nhân tình,
Thảm đạm khổ sĩ chí.
An biên địch hà hữu,
Phản chính kế thuỷ toại.
Ngô văn giá cổ xa,
Bất hợp dụng kỳ ký.
Long ngâm hồi kỳ đầu,
Giáp phụ thị sở trí.

Dịch nghĩa

Gió nam thổi gây ra tiếng của mùa thu,
Cái không khí chết chóc làm mờ cả đuốc sáng.
Vào giữa mùa hè, chim ưng chim chuẩn thường hoạt động,
Lúc nguy nan, người có tài lạ thường xuất hiện.
Chú em họ của tôi từ vùng giặc trốn tới,
Được vời tới bàn việc trọng đại, lâu dài.
Có tờ chiếu của nhà vua đòi tới trước điện,
Múa lưỡi mà kích động được ý nhà vua.
Chiến lược quân sự của năm chục nhà,
Bụng chú em là cái thùng chứa.
Ứng đối rất trơn tru,
Sớ tâu tóm tắt qua văn tự.
Cách giải quyết việc qua những lời thông thường,
Đủ để làm rõ công cụ hữu hiệu.
Miếu thờ còn đang toả đầy bụi,
Cả vua lẫn bề tôi đều rơi nước mẳt.
Không Đồng đất không có trục,
Thanh Hải trời không có trên dưới.
Vùng cực tây rất bối rối,
Các núi rực lửa báo động.
Vua phán: Ngươi là vị quan lớn từ đám bình dân leo lên,
Nhờ ngươi giúp cho vị cầm đầu.
Muốn ngồi thấy vùng sa mạc yên lành,
Nên mới cậy nhà ngươi đi sứ.
Khi nào về hãy trình lại,
Đi xa như thế chẳng phải là việc uổng công.
Cố lo bảo vệ quận Vũ Uy,
Đề ra cái kế làm lợi về lâu dài.
Nơi chỏm núi cao quán dịch xây trên đá,
Ngựa khoẻ dây cương nạm vàng.
Thịt bò vàng ăn không hoi,
Rượu đất Lỗ uống nhiều tất say.
Tính người thường náo nức,
Cái nỗi khổ của người có chí thì âm thầm.
Nếu giữ vùng biên giới yên ổn thì làm gì có địch,
Cái cách để thành công lúc đầu là trở lại với cái đích xác.
Tôi nghe nói con ngựa kéo xe đi dạo mát,
Nếu mà dùng ngựa nòi là không đúng chỗ.
Rồng ngâm còn quay cổ trở lại,
Phụ tá đang trông chờ ở sự đóng góp.

Bản dịch của Phạm Doanh

Gió nam vang tiếng thu,
Sát khí mờ đuốc cháy.
Hè dài ưng, chuẩn vung,
Thời nguy kẻ tài tới.
Chú em trốn giặc về,
Mời bàn việc rộng rãi.
Giấy vua đưa tới ngai,
Thoả ý vua múa lưỡi.
Chiến thuật năm chục nhà,
Bụng chú thúng chứa gửi.
Tờ tâu tóm văn từ,
Trơn tru lời ứng đối.
Chính sách bàn rạch ròi,
Đủ thấy là sành sỏi.
Tông miếu còn tan hoang,
Vua tôi lệ đều chảy.
Đất không trục: Không Đồng,
Trời nghiêng ngửa: Thanh Hải.
Cực tây rất đau thương,
Liền núi lửa chiếu dọi.
Vua phán: là sĩ phu,
Xin mau giúp nguyên soái.
Ngồi coi sa mạc yên,
Đi sứ, nay cần phái.
Khi về lại tới trình,
Đi xa ắt có lợi.
Lo giữ quận Vũ Uy,
Để lập kế vững chãi.
Quán trọ đá núi cao,
Cương vàng neo ngựa giỏi.
Bò vàng ăn không hoi,
Rượu Lỗ uống nhiều dội.
Tình người hay săng văng,
Chí sĩ khổ buồn tủi.
Vắng giặc biên giới yên,
Kế cần đạt: đúng lối.
Tôi nghe ngựa rong chơi,
Dùng kì kí là trái.
Rồng ngâm còn quay đầu,
Phụ tá còn trông đợi.
(Năm 757)

Đỗ Á tự Thứ Công, người kinh đô. Khi Túc Tông ở Linh Vũ, có dâng sớ bàn về tình hình hiện thời, được phong chức hiệu thư lang. Khi đó Đỗ Hồng Tiệm làm tiết độ Hà Tây, tuyển làm nhân viên dưới quyền. Hà Tây chỉ phần đất phía tây sông Hoàng Hà, bao gồm hai tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc.

[1] Do chữ “bố y khanh tướng”, chỉ người không phải dòng dõi nhà vua, hay quý tộc, chỉ nhờ tài mà được tuyển dụng làm quan.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Tống tòng đệ Á phó Hà Tây phán quan