03/06/2023 11:12Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Phạm Hy Hưng vào 26/12/2022 02:23

Phiên âm
Bắc Hải đài biên phong sách sách,
Tín Đô thành đầu cầm khách khách.
Để sự trì khu vạn lý nhân,
Phiên vi tập tĩnh sơn phòng khách,
Thi tuyển triêu triêu đảo tửu tôn,
Viễn chung dạ dạ độ tằng môn,
Quy vị hữu kỳ, khứ bất đắc,
Dục vấn, hoàng hoa tiếu bất ngôn.Dịch nghĩa
Bên đài Bắc Hải gió xào xạc thổi,
Đầu thành Tín Đô chim ríu rít kêu.
Rốt cục thì người ruổi ngựa dặm trường
Lại trở thành khách tập tĩnh toạ giữ một căn phòng trong núi.
Sáng sáng mở quyển thơ, dốc chén rượu,
Đêm đêm nghe tiếng chuông lọt qua mấy lớp cửa.
Chưa biết lúc nào về, mà đi thì không được,
Muốn hỏi, cúc vàng cười mà chẳng nói.Bản dịch của Trần Lê Văn
Đài Bắc Hải, gió reo vi vút,
Thành Tín Đô, chim hót ríu ran.
Người đi rong ruổi dặm ngàn,
Lại vào phòng núi, bình an toạ thiền.
Sáng, đọc thơ tối liền dốc chén,
Đêm, nghe chuông lọt đến tầng sâu!
Đi chẳng được, về còn lâu!
Hỏi cúc vàng, chẳng nói đâu, chỉ cười.
Trực Lệ đời Chiến quốc thuộc Triệu, đến đời Tần thuộc Hàm Cốc, đến đời Hán là đất Tín Đô, thuộc Trác Quận, đời Tuỳ gọi là Thanh Uyển, đến đời Ngũ Đại, Thạch Tần cắt đất này để hối lộ cho người Khiết Đan, thành đất U Châu.
Nguồn: Phạm Hy Lượng - cuộc đời và tác phẩm, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin, 1997