26/04/2024 18:50Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hoài dân dao
淮民謠

Tác giả: Vưu Mậu - 尤袤

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Nam Tống, Kim
Đăng bởi tôn tiền tử vào 09/10/2018 14:01

 

Nguyên tác

東府買舟船,
西府買器械。
問儂欲何為,
團結山水寨。
寨長過我廬,
意氣甚雄粗。
青衫兩承局,
暮夜連勾呼。
勾呼且未已,
椎剝到雞豕。
供應稍不如,
向前受笞箠。
驅東复驅西,
棄卻鋤與犁。
無錢買刀劍,
典盡渾家衣。
去年江南荒,
趁熟過江北。
江北不可住,
江南歸未得。
父母生我時,
教我學耕桑。
不識官府嚴,
安能事戎行。
執槍不解刺,
執弓不能射。
團結我何為,
徒勞定無益。
流離重流離,
忍凍复忍飢。
誰謂天地寬,
一身無所依。
淮南喪亂后,
安集亦未久。
死者積如痲,
生者能幾口。
荒村日西斜,
破屋兩三家。
撫摩力不給,
將奈此擾何。

Phiên âm

Đông phủ mãi chu thuyền,
Tây phủ mãi khí giới.
Vấn nùng dục hà vi?
Đoàn kết sơn thuỷ trại.
Trại trưởng quá ngã lư,
Ý khí thậm hùng thô.
Thanh sam lưỡng thừa cục,
Mộ dạ liên câu hô.
Câu hô thả vị dĩ,
Chuỳ bác đáo kê thỉ.
Cung ứng sảo bất như,
Hướng tiền thụ xuy chuỳ.
Khu động phục khu tây,
Khí khước sừ dữ lê.
Vô tiền mãi đao kiếm,
Điển tận hồn gia y.
Khứ niên Giang Nam hoang,
Sấn thục quá Giang Bắc.
Giang Bắc bất khả trụ,
Giang Nam quy vị đắc.
Phụ mẫu sinh ngã thì,
Giáo ngã học canh tang.
Bất thức quan phủ nghiêm,
An năng sự nhung hàng!
Chấp sang bất giải thích,
Chấp cung bất năng xạ.
Đoàn kiết ngã hà vi,
Đồ lao định vô ích.
Lưu ly trùng lưu ly,
Nhẫn đống phục nhẫn cơ.
Thuỳ vị thiên địa khoan,
Nhất thân vô sở y!
Hoài Nam táng loạn hậu,
An tập diệc vị cửu.
Tử giả tích như ma,
Sinh giả năng kỷ khẩu!
Hoang thôn nhật tây tà,
Phá ốc lưỡng tam gia.
Phủ ma lực bất cấp,
Tương nại thử nhiễu hà!

Dịch nghĩa

Mua thuyền bè ở bên đông phủ
Mua khí giới ở bên tây phủ
Hỏi người ta để làm gì?
Để tổ chức trại Sơn Thuỷ
Trưởng trại vào mái lều của ta
Ý khí hung hăng và thô bạo lắm
Hai công sai mặc áo đen
Ngày đêm gọi nhau
Gọi nhau còn chưa thôi
Lại bắt cả gà lợn
Đóng nộp hơi không vừa ý
Xông đến đánh bằng roi vọt
Dân chạy sang đông lại chạy sang tây
Bỏ hết cả công việc cày cấy
Không có tiền để mua dao kiếm
Phải bán hết cả áo của vợ
Năm ngoái Giang Nam mất mùa
Nhằm sang Giang Bắc được mùa
Giang Bắc không thể ở lại
Giang Nam về không được
Khi cha mẹ sinh ra ta
Dạy ta học việc nông tang
Không biết oai quan phủ như thế nào
Thì làm sao làm nổi việc trận mạc!
Cầm giáo không biết đâm
Cầm cung không biết bắn
Tổ chức ta lại để làm gì
Chỉ uổng công vô ích
Cuộc sống lưu ly vẫn lại lưu ly
Đã chịu rét còn phải nhịn đói
Ai bảo đất trời rộng rãi
Một thân mà không biết nương tựa vào đâu!
Hoài Nam sau khi loạn lạc
Dân quay về chưa được lâu
Người chết như ngả rạ
Còn sống được mấy người!
Thôn hoang tàn mặt trời chiều
Nhà nát được vài ba mái
Muốn cứu tế sức không đủ
Trước rối ren này biết làm thế nào

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Mua thuyền bên đông phủ
Mua khí giới bên tây
Hỏi để làm gì thế?
Cho trại Sơn Thuỷ này
Vào lều ta trại trưởng
Ý khí thô bạo đầy
Công sai áo đen đến
Gọi nhau suốt đêm ngày
Gọi nhau còn chưa kể
Gà lợn bắt cầm tay
Đóng nộp chẳng vừa ý
Xông lại đánh đập ngay
Dân đông, tây tán loạn
Bỏ hết cả bừa cày
Không tiền mua dao kiếm
Bán áo quần mới gay
Năm ngoái Giang Nam đói
Lúa Giang Bắc trĩu tay
Giang Bắc không ở được
Về Giang Nam khổ thay
Khi sinh ta, cha mẹ
Chỉ dạy ta cấy cày
Oai quan phủ chưa biết
Liệu trận mạc sao đây!
Cầm giáo, đâm không biết
Lúng túng cung trên tay
Bảo ta làm gì được
Vô ích, vất vả thay
Ly tán lại ly tán
Đói rét theo đoạ đày
Đất trời ai bảo rộng
Không nơi nương thân gầy!
Hoài Nam sau loạn lạc
Dân về chưa mấy ngày
Người chết như ngả rạ
Sống sót được mấy ai!
Ánh chiều chiếu thôn vắng
Vài ba nhà đó đây
Cứu tế sức không nổi
Biết sao rối ren này
Bài này tuyển từ Tống thi tuyển chú của Tiền Chung Thư tiên sinh. Tam triều bắc minh hội biên của Từ Mộng Tân chép khi quân của Kim chủ là Hoàn Nhan Lương xâm phạm Dương Châu, tri huyện Thái Hưng là Vưu Mậu giữ vững Thái Hưng, song lại lấy làm đau buồn khi trại Sơn Thuỷ ở phí nam sông Hoài quấy nhiễu dân không giữ nổi gia thuộc nên ông làm bài thơ này. Sơn Thuỷ trại trong bài thơ là hình thức vũ trang của địa phương có tác dụng tích cực chống Kim, song lúc bấy giờ cả một tập đoàn thối nát nắm quyền cai trị, thiếu năng lực không biết dựa vào dân, mà trái lại, làm nhiễu hại dân.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Vưu Mậu » Hoài dân dao