29/03/2024 20:30Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Ký Bành Châu Cao tam thập ngũ sứ quân Thích, Hào Châu Sầm nhị thập thất trưởng sử Tham tam thập vận
寄彭州高三十五使君適、虢州岑二十七長史參三十韻

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 29/03/2015 10:07

 

Nguyên tác

故人何寂寞,
今我獨淒涼。
老去才難盡,
秋來興甚長。
物情尤可見,
辭客未能忘。
海內知名士,
雲端各異方。
高岑殊緩步,
沈鮑得同行。
意愜關飛動,
篇終接混茫。
舉天悲富駱,
近代惜盧王。
似爾官仍貴,
前賢命可傷。
諸侯非棄擲,
半刺已翱翔。
詩好幾時見,
書成無信將。
男兒行處是,
客子鬥身強。
羈旅推賢聖,
沈綿抵咎殃。
三年猶瘧疾,
一鬼不銷亡。
隔日搜脂髓,
增寒抱雪霜。
徒然潛隙地,
有靦屢鮮妝。
何太龍鍾極,
於今出處妨。
無錢居帝裏,
盡室在邊疆。
劉表雖遺恨,
龐公至死藏。
心微傍魚鳥,
肉瘦怯豺狼。
隴草蕭蕭白,
洮雲片片黃。
彭門劍閣外,
虢略鼎湖旁。
荊玉簪頭冷,
巴箋染翰光。
烏麻蒸續曬,
丹橘露應嘗。
豈異神仙宅,
俱兼山水鄉。
竹齋燒藥灶,
花嶼讀書床。
更得清新否,
遙知對屬忙。
舊官寧改漢,
淳俗本歸唐。
濟世宜公等,
安貧亦士常。
蚩尤終戮辱,
胡羯漫倡狂。
會待襖氛靜,
論文暫裹糧。

Phiên âm

Cố nhân hà tịch mịch,
Kim ngã độc thê lương.
Lão khứ tài nan tận,
Thu lai hứng thậm trường.
Vật tình vưu khả kiến,
Từ khách vị năng vương (vong).
Hải nội tri danh sĩ,
Vân đoan các dị phương.
Cao, Sầm thù hoãn bộ,
Thẩm[1], Bão[2] đắc đồng hành.
Ý khiếp quan phi động,
Thiên chung tiếp hỗn mang.
Cử thiên bi Phú[3], Lạc[4],
Cận đại tích Lư[5], Vương[6].
Tự nhĩ quan nhưng quý,
Tiền hiền mệnh khả thương.
Chư hầu phi khí trịch,
Bán thích dĩ cao tường.
Thi hảo kỷ thì kiến,
Thư thành vô tín tương.
Nam nhi hành xử thị,
Khách tử đấu thân cường.
Ky lữ thôi hiền thánh,
Trầm miên để cữu ương.
Tam niên do ngược tật,
Nhất quỷ bất tiêu vong.
Cách nhật sưu chi tuỷ,
Tăng hàn bão tuyết sương.
Đồ nhiên tiềm khích địa,
Hữu điến lũ tiên trang.
Hà thái long chung cực,
Vu kim xuất xử phương.
Vô tiền cư đế lý,
Tận thất tại biên cương.
Lưu Biểu[7] tuy di hận,
Bàng công[8] chí tử tàng.
Tâm vi bàng ngư điểu,
Nhục sấu khiếp sài lang.
Lũng[9] thảo tiêu tiêu bạch,
Thao[10] vân phiến phiến hoàng.
Bành[11] môn, Kiếm Các[12] ngoại,
Quắc[13] lược, Đỉnh Hồ[14] bàng.
Kinh, ngọc trâm đầu lãnh,
Ba, tiên nhiễm hàn quang.
Ô ma chưng tục sất,
Đan quất lộ ưng thường.
Khởi dị thần tiên trạch,
Câu kiêm sơn thuỷ hương.
Trúc trai thiêu dược táo,
Hoa dự độc thư sàng.
Cánh đắc thanh tân phủ,
Dao tri đối thuộc mang.
Cựu quan ninh cải Hán[15],
Thuần tục bản quy Đường[16].
Tế thế nghi công đẳng,
An bần diệc sĩ thường.
Xi Vưu[17] chung lục nhục,
Hồ Yết[18] mạn xương cuồng.
Hội đãi áo phân[19] tĩnh,
Luận văn tạm khoả lương.

Dịch nghĩa

Bạn xưa sao mà vắng bặt,
Một mình tôi buồn rầu.
Tới già tài khó hết,
Thu về hứng càng cao.
Lòng người càng dễ thấy,
Bạn văn chưa thể quên.
Cả nước biết bậc danh sĩ,
Chân trời mỗi người một nơi.
Hai ông Cao, Sầm thảnh thơi,
Cùng được đi chung với Thẩm, và Bão.
Ý đạt thì khép kín lại không bay nhảy,
Thơ thành là tới chốn lâng lâng.
Cái buồn của Phú và Lạc cao vút tận trời,
Sát với thời nay thấy tiếc cho Lư và Vương.
Giống các ông làm quan vẫn là quý,
Nhưng số phận các bậc hiền đời trước thật đáng thương.
Chư hầu chớ có bỏ đi,
Mới nửa phần chế sứ đã bay cao rồi.
Thơ hay chừng nào thấy,
Thư viết xong chưa có kẻ tin cẩn để gửi.
Kẻ làm trai có thái độ như thế đó,
Kẻ xa nhà phải phấn đấu để thân mạnh lên,
Sống nơi đất khách chính là để trở nên người hiền,
Im lìm lâu là để tránh tai hoạ.
Ba năm còn chứng bệnh sốt rét ngã nước.
Một con quỷ đó chưa có tiêu tan.
Cứ cách ngày là kiểm tra lại tuỷ xương,
Khi trời lạnh lên, phải lo phòng giữ tuyết sương.
Thật là vô ích nấp nơi đất ranh giới,
Cỏ vẻ thẹn thùng khi trang điểm đẹp (lo trị bệnh).
Sao đối với tuổi già lại tới mức quá xá như thế,
Giờ đây ra làm quan hay ở ẩn cũng đều có gặp trở ngại.
Không có tiền để sống nơi kinh đô,
Vách trống sống nơi biên cương.
Tuy rằng Lưu Biểu còn để mối hận lại,
Nhưng Bàng Đức công vẫn ẩn tránh cho tới chết.
Lòng nhỏ nhặt nên gần kề với cá, chim.
Thịt nhăn nheo nên sợ lũ sài lang.
Cỏ vùng Lũng bát ngát trắng xoá,
Mây sông Thao lớp lớp vàng.
Cửa núi Bành ngay bên ngoài Kiếm Các.
Đất xứ Quắc ngay bên Đỉnh Hồ.
Nơi vùng Kinh, trâm ngọc trên đầu thấy lạnh,
Nơi đất Ba, giấy thấm ánh sáng của văn chương.
Mè đen hết sấy lại phơi,
Quất đỏ bày ra trước mắt làm mình muốn nếm.
Há có khác với nhà thần tiên hay sao,
Vốn ở làng có đầy đủ núi sông.
Phòng trúc có bếp sấy thuốc,
Đảo hoa có đặt giường đọc sách.
Có phải là khoan khoái như được cái mới không,
Xa biết hai ông hiện đang rất cấp rấp hoang mang.
Chức chế sứ đặt ra từ triều Hán xưa, thế mà sao lại đổi,
Phong tục đã thuần rồi thì về tay nhà Đường.
Giúp đời rất hợp với các ông,
Chịu cảnh nghèo đó là lẽ thường tình dành cho kẻ sĩ.
Xi Vưu bị đánh chết,
Hồ Yết vẫn còn ngông cuồng lắm.
Chờ dịp lúc không khí chiến tranh lắng xuống,
Bàn chuyện văn chương tạm thay thế cho gói cơm.

Bản dịch của Phạm Doanh

Bạn cũ sao mà im hơi thế,
Để mình ta nay bị u hoài.
Tuổi tuy già khó hết tài,
Thu về hứng lại càng dài thêm sâu.
Đạo lý đã như hầu thấy rõ,
Các khách thơ chưa có lãng quên.
Dưới trời những kẻ biết tên,
Mỗi người một chỗ tận miền mây xa.
Cao, Sầm có khác là bước chậm,
Với Thẩm, Bào cùng dấn bước đi.
Ý đạt khép lại ngưng bay,
Thơ thành là tới cõi trời hỗn mang.
Tới tận trời buồn thương Phú, Lạc,
Sát gần đây lại tiếc Lư, Vương.
Quan là quí, giống các ông,
Mệnh người hiền trước đáng thương muôn phần.
Các chư hầu chẳng nên vứt bỏ,
Mới khẽ va là đã bay rồi.
Thơ hay chừng nào được coi,
Lá thư sẵn viết, không người gửi đi.
Hành, xử kẻ nam nhi giống vậy,
Kẻ xa nhà giữ lấy tấm thân.
Đất lạ chẳng nể thánh nhân,
Nhún mình để tránh oan khiên đó mà.
Bệnh quái ác đã ba năm khổ,
Một quỉ kia dứt bỏ không rời.
Cách ngày xương tuỷ lại coi,
Tuyết sương phòng giữ khi trời lạnh thêm.
Nơi đất hẹp nằm yên chẳng khá,
Dáng thẹn thùng vì đã thoa hương.
Thân già sao tới mức cùng,
Giờ đây quan, ẩn cũng từng hại thôi.
Không có tiền ở nơi kẻ chợ,
Căn nhà tồi nơi xó biên cương.
Lưu Biểu tuy hận còn mang,
Giữ gìn tới chết, ông Bàng đem theo.
Lòng nhỏ nhặt bám đeo chim cá,
Thịt nhăn nheo phải né sài lang.
Cỏ Lũng trắng xoá một vùng,
Mây Thao lớp lớp trên không vàng khè.
Bành Môn ở ngoài lề Kiếm Các,
Tại ngay bên đất Quắc: Đỉnh Hồ.
Vùng Kinh, trâm ngọc đầu trơ,
Xứ Ba giấy thấm vần thơ sáng ngời.
Rổ mè đen hết phơi lại sấy,
Chùm quất đỏ trông thấy mà thèm.
Khác chi nhà của thần tiên,
Một làng sông núi đi kèm xứng đôi.
Trong phòng trúc đặt nồi hong thuốc,
Dưới khóm hoa, giường đọc sách bày.
Cái mới có được thật may,
Xa hay hai bác đúng ngày hỡi ơi.
Chức quan cũ Hán thời, sao đổi,
Tục thuần rồi theo lối về Đường
Giúp đời xứng với hai ông,
Với cảnh nghèo khó, sĩ thường vui thôi.
Vua Xi Vưu thế rồi bị giết,
Vẫn ngông cuồng Hồ Yết gây trò.
Khi nào loạn lạc yên cho,
Đem văn bàn luận thay tô cơm lành.
(Năm 759)

[1] Thẩm Ước (44-513), văn nhân thời Nam Bắc triều.
[2] Bão Chiếu (415-470), nhà thơ thời Nam Bắc triều.
[3] Phú Gia Mô 富嘉謨, một nhà thơ đầu đời Đường.
[4] Lạc Tân Cương 駱賓王 (626-684), một nhà thơ đời Đường.
[5] Lư Chiếu Lân 盧照鄰 (636-695), một nhà thơ đời Đường.
[6] Vương Bột 王勃 (650-676), tự Tử An, người vùng Long Môn (Sơn Tây), một nhà thơ đời Đường.
[7] Lưu Biểu (142-208) tự Cảnh Thăng 景升, người đời Đông Hán. Thời Hán Hiến Đế giữ chức Kinh Châu chế sứ, có nhiều quân sĩ, yêu dân đãi sĩ, ung dung tự tại một cõi, không tranh hùng với ai. Khi Tào Tháo 曹操 mang quân tới đánh, quân chưa tới, ông lo lắng mà chết, con là Lưu Tông 劉琮 đầu hàng.
[8] Bàng Đức tự Sơn Dân 山民, người Tương Dương (nay là Tương Phàn, Hồ Bắc) cuối đời Đông Hán. Lưu Biểu 劉表 nhiều lần mới ra hợp tác, nhưng ông từ chối về ở ẩn ở núi Lộc Môn, mang cả nhà vào rừng hái thuốc kiếm sống.
[9] Thuộc tỉnh Cam Túc.
[10] Sông thuộc tỉnh Cam Túc, phát nguyên từ huyện Lâm Đàm, tây bắc núi Tây Khuynh, chảy qua các huyện Mân, Cao Lan rồi đổ vào Hoàng Hà.
[11] Núi tại huyện Bành, Tứ Xuyên, hai ngọn đối nhau lập thành cái cửa.
[12] Thuộc Tứ Xuyên. Giữa hai núi Đại và Tiểu Kiếm sơn là đường ván treo (sạn đạo). Hai bên bờ cao và nguy hiểm, đường này là con lộ chính thông thương giữa hai tỉnh Tứ Xuyên và Thiểm Tây. Có cảm giác bay lên lầu cao để tiếp tục đi trên con đường, nên mới mang danh Kiếm Các, cũng gọi là Kiếm Đạo.
[13] Một nước nhỏ thời Xuân Thu, nay thuộc tỉnh Hà Nam.
[14] Tên đất. Tương truyền Hoàng Đế cho đúc đỉnh ở chân núi Kinh, đúc xong, Hoàng Đế đã từ nơi này cưỡi rồng bay lên trời.
[15] Sầm Tham chỉ được bổ làm trưởng sử, chức vụ bằng nửa chế sứ.
[16] Nước Quắc trước kia thuộc nước Tấn. Câu chuyện thường được nhắc qua câu "giả đồ diệt Quắc" 假途滅虢 (Mượn đường đánh Quắc).
[17] Tương truyền vua nước Cửu Lê ngày xưa, sinh việc binh qua, chế ra giáo mác cung nỏ quấy rối chư hầu, nên bị Hoàng Đế đánh chết ở Trác Lộc, nay thuộc Sát Cáp Nhĩ (Cáp Nhĩ Tân), tỉnh Hắc Long Giang.
[18] Một dân tộc thiểu số Trung Quốc, là một chi của rợ Hung Nô, nay ở vào khoảng tỉnh Sơn Tây.
[19] Áo nhồi bông dày thời trước dành cho quân sĩ khi ra trận mặc, để đề phòng giáo mác và cung tên xâm phạm.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Ký Bành Châu Cao tam thập ngũ sứ quân Thích, Hào Châu Sầm nhị thập thất trưởng sử Tham tam thập vận