06/10/2024 17:00Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 14/02/2015 12:48
Nguyên tác
憶昔先皇巡朔方,
千乘萬騎入咸陽。
陰山驕子汗血馬,
長驅東胡胡走藏。
鄴城反復不足怪,
關中小兒壞紀綱,
張后不樂上為忙。
至今今上猶撥亂,
勞身焦思補四方。
我昔近侍叨奉引,
出兵整肅不可當。
為留猛士守未央,
致使岐雍防西羌。
犬戎直來坐禦床,
百官跣足隨天王。
願見北地傅介子,
老儒不用尚書郎。
Phiên âm
Ức tích tiên hoàng[1] tuần sóc phương,
Thiên thặng vạn kỵ nhập Hàm Dương[2].
Âm Sơn[3] kiêu tử hãn huyết mã,
Trường khu đông hồ, Hồ[4] tẩu tàng.
Nghiệp Thành[5] phản phúc bất túc quái,
Quan Trung tiểu nhi[6] hoại kỷ cương.
Trương hậu[7] bất lạc, thượng vi mang.
Chí kim, kim thượng[8] do bát loạn,
Lao thân tiều tứ bổ tứ phương.
Ngã tích cận thị thao phụng dẫn,
Xuất binh chỉnh túc bất khả đương.
Vi lưu mãnh sĩ thủ Vị Ương[9],
Trí sứ Kỳ, Ung[10] phòng Tây Khương[11].
Khuyển Nhung trực lai toạ ngự sàng,
Bách quan tiển túc tuỳ thiên vương[12].
Nguyện kiến bắc địa Phó Giới Tử[13],
Lão nho bất dụng thượng thư lang[14].Dịch nghĩa
Nhớ xưa vua trước đi tuần vùng phương bắc,
Mang theo ngàn cỗ xe với vạn con ngựa, tới vùng Hàm Dương.
Vùng Âm Sơn, các dân con trời kia có ngựa quý,
Nên họ đã đánh đuổi giặc Hồ chạy dài.
Quân cứu viện cho Nghiệp Thành không cần quan tâm,
Đứa con nít nơi Quan Trung làm nát cả giềng mối.
Hoàng hậu họ Trương không vui, thì nhà vua lòng không yên.
Cho tới giờ này, vua hiện nay cũng còn đang bối rối,
Thân tất tả, ý lo lắng khắp bốn phương.
Ta trước từng làm quan gần vua chỉ biết kêu lên vậy thôi,
Mang quân đi đánh dẹp thì không làm được.
Nhân vì giữ lính khoẻ ở lại giữ cung Vị Ương,
Đặt quan nơi Kỳ, Ung để chặn giặc Tây Khương.
Rợ Khuyển Nhung tới thẳng vào ngồi trên ngai vàng vua,
Các quan đi chân không theo vua.
Mong được thấy nơi phía bắc có Phó Giới Tử,
Tên nho sĩ già này sao mà có thể dùng làm kẻ đảm trách việc lớn được.Bản dịch của Phạm Doanh
Nhớ xưa vua tới thăm miền bắc,
Ngàn xe, vạn ngựa vào Hàm Dương.
Núi nam Hồi Hột giống ngựa quý,
Đánh đuổi giặc Hồ, Hồ tan hàng.
Nghiệp thành phản bội không đủ ngại,
Thằng nhỏ Quan Trung phá kỷ cương,
Hoàng hậu Trương dỗi, vua xốn xang.
Đến giờ vua hãy còn bấn loạn,
Nhọc thân, mệt trí chạy bốn phương.
Xưa ta lạm phần hầu bên cạnh,
Đem quân đánh dẹp không thể đương.
Vì giữ lính giỏi canh Vị Ương,
Phái quan Kỳ, Ung chặn tây Khương.
Khuyển Nhung tới thẳng ngồi ngay giường,
Trăm quan chân đất theo quân vương.
Mong có Phó Giới Tử phía bắc,
Nho già chẳng xứng thượng thư lang.
(Năm 764)
[1] Đường Túc Tông Lý Hanh 李亨 (711-762), con thứ ba của Đường Huyền Tông, năm 756 lên ngôi ở Linh Vũ (nay là Linh Vũ, tỉnh Ninh Hạ), lấy niên hiệu Chí Đức.
[2] Sau khi dẹp được An Khánh Thự, thu lại Trường An.
[3] Khu tự trị Mông Cổ, trước là căn cứ địa của dân Hồi Hột.
[4] Chỉ loạn An Lộc Sơn.
[5] Thuộc huyện An Dương, tỉnh Hồ Nam. An Khánh Thự bị quan quân vây, Sử Tư Minh tới cứu cũng bị đánh bại.
[6] Chỉ Lý Phủ Quốc, một hoạn quan được Túc Tông tin dùng.
[7] Vợ chính của Túc Tông, cấu kết với Lý Phủ Quốc.
[8] Vua nay là Đại Tông.
[9] Tên cung đời Hán, đây ám chỉ cung vua đương thời. Quách Tử Nghi bị tước binh quyền, giữ lại nơi Trường An.
[10] Chỉ dải đất Phụng Tường, tỉnh Thiểm Tây.
[11] Chỉ giặc Thổ Phồn. Tác giả công kích việc Đại Tông không dùng Quách Tử Nghi, tước hết binh quyền, giữ lại Trường An, khiến Thổ Phồn thừa cơ xâm lấn ngoài biên giới.
[12] Đại Tông phải chạy loạn vào Thiểm Tây.
[13] Tướng đời Hán, đi xứ Lâu Lan mà bắt được vua xứ này thần phục nhà Hán.
[14] Năm 764, Nghiêm Vũ dâng sớ tâu lên vua xin cho Đỗ Phủ giữ chức kiểm hiệu thượng thư công bộ viên ngoại lang.