26/04/2024 07:18Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Khoá phạt mộc
課伐木

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 24/02/2015 11:10

 

Nguyên tác

長夏無所為,
客居課奴僕。
清晨飯其腸,
持斧入白谷。
青冥曾巔後,
十里斬陰木。
人肩四根已,
亭午下山麓。
尚聞丁丁聲,
功課日各足。
蒼皮成委積,
素節相照燭。
藉汝跨小籬,
當材若虛竹。
空荒咆熊羆,
乳獸待人肉。
不示知禁情,
豈惟干戈哭。
城中賢府主,
處貴如白屋。
蕭蕭理體淨,
蜂蠆不敢毒。
虎穴連里閭,
堤防舊風俗。
泊舟滄江岸,
久客慎所觸。
舍西崖嶠壯,
雷雨蔚含蓄。
牆宇資屢修,
衰年怯幽獨。
爾曹輕執熱,
為我忍煩促。
秋光近青岑,
季月當泛菊。
報之以微寒,
共給酒一斛。

Phiên âm

Trường hạ vô sở vi,
Khách cư khoá nô bộc.
Thanh thần phạn kỳ trường,
Trì phủ nhập bạch cốc.
Thanh minh tăng điên hậu,
Thập lý trảm âm mộc.
Nhân kiên tứ căn dĩ,
Đình ngọ há sơn lộc.
Thượng văn đinh đinh thanh,
Công khoá nhật các túc.
Thương bì thành tích uỷ,
Tố tiết tương chiếu chúc.
Tạ nhữ khoa tiểu ly,
Đương tài nhược hư trúc.
Không hoang bào hùng bi,
Nhũ thú đãi nhân nhục.
Bất thị tri cấm tình,
Khởi duy can qua khốc.
Thành trung hiền phủ chủ[1],
Xử quý như bạch ốc.
Tiêu tiêu lý thể tĩnh,
Phong sái bất cảm độc.
Hổ huyệt liên lý lư,
Đê phòng cựu phong tục.
Bạc chu thương giang ngạn,
Cửu khách thận sở xúc.
Xá tây nhai kiệu tráng,
Lôi vũ uất hàm súc.
Tường vũ tư lũ tu,
Suy niên khiếp u độc.
Nhĩ tào khinh chấp nhiệt,
Vị ngã nhẫn phiền xúc.
Thu quang cận thanh sầm,
Quý nguyệt đương phiếm cúc.
Chấp chi dĩ vi hàn,
Cộng cấp tửu nhất hộc.

Dịch nghĩa

Ngày hè dài không có việc gì làm,
Nương thân chốn quê người chỉ bảo bọn người làm trong nhà cách đốn cây.
Sáng tinh mơ sau khi ăn no một bụng,
Vác rìu vào núi hoang.
Tuốt sau chỏm núi xanh mờ kia,
Dài độ mười dặm, đẵn cây hoang.
Mỗi người nhận việc bốn cây là đủ,
Giữa trưa thì đi xuống chân núi.
Còn nghe tiếng chát chát,
Việc cắt cử trong ngày mọi người đều hoàn tất.
Vỏ thân cây xanh chất thành cả đống,
Màu gỗ trắng sáng loáng như đuốc chiếu.
Nhờ chúng mày vắt ngang hàng rào thấp,
Chêm vào chỗ tre thưa.
Nới hoang vắng báo beo gầm,
Chờ thịt người để mớm cho loài thú.
Chẳng để ý gì đến lòng đối với lệnh cấm,
Đâu có phải là chỉ khóc lóc vì loạn lạc.
Trong thành quan đứng đầu phủ vốn nhân từ,
Đối xử với kẻ giàu ngang với người nghèo.
Ông trầm tĩnh dẽ dàng giải quyết mọi việc,
Ong với bọ cạp không dám gây độc.
Hang cọp ngay gần với làng xóm,
Đề phòng là việc làm từ xưa dền giờ.
Tôi đậu thuyền nơi sông trong,
Làm thân sống xa quê đã lâu rất thận trọng không dám xúc phạm luật.
Về phía tây nhà, đường núi cheo leo,
Sấm mưa càng làm cho um tùm.
Tường ngõ đã sửa sang nhiều lần,
Tuổi già sợ cảnh hoang vắng cô đơn.
Bọn bay (hàng rào) coi thường việc chịu nóng,
Vì ta mà cam chịu nỗi phiền hà.
Ánh sáng mùa thu gần sườn núi xanh,
Tháng cuối của mùa thu là lúc cúc rộ.
Đáp lại lúc hơi chớm lạnh,
Cùng cấp rượu ngâm cúc một vò.

Bản dịch của Phạm Doanh

Ngày hè không gì làm,
Xứ người sai đầy tớ.
Sáng sớm bụng ăn no,
Vác rìu vào rừng rú.
Phía sau chỏm xanh mờ,
Mười dặm chặt cây gỗ.
Bốn gốc cho mỗi người,
Xuống núi vào giữa ngọ.
Chan chát tiếng còn nghe,
Việc làm người đều đủ.
Vỏ xanh cứ chất đầy,
Trong sáng chói đuốc tỏ.
Nhờ bay giúp dựng rào,
Trúc rỗng trồng thay chỗ.
Chốn hoang beo báo gầm,
Thịt người chờ miệng thú.
Chặng màng luật cấm ngăn,
Há chỉ khóc khói lửa.
Quan huyện hiền giữ thành,
Giàu nghèo cùng đối xử.
Giải quyết việc êm xuôi,
Boọ ác không gây dữ.
Hang cọp gần xóm làng,
Lối xưa vẩn lo giữ.
Đậu thuyền bên sông trong,
Thân khách lo ăn ở.
Tây nhà, núi cao vời,
Rậm rì nhờ mưa lũ.
Tường vách sửa nhiều lần,
Tuổi già ngại vắng vẻ.
Bọn bay chịu nóng hoài,
Vì ta cam chống đỡ.
Ánh thu gần non xanh,
Tháng cuối cúc đang rộ.
Chống lại cái lạnh vừa,
Đủ ngâm rượu một hũ.
(Năm 767)

Lời tự: “Khoá lệ nhân Bá Di, Tân Tú, tín hành đẳng nhập cốc trảm âm mộc. Nhân nhật tứ căn chỉ. Duy điều y mai, chính trực đĩnh nhiên. Thần chinh mộ phản. Uỷ tích đình nội. Ngã hữu phiên ly. Thị khuyết thị bổ. Tái phạt tiểu đãng, Y trượng chi trì, tắc lữ thứ ư tiểu an. Sơn hữu hổ tri cấm. Nhược thị qua nha chi lợi, tất hôn hắc đường đột. Quỳ nhân ốc bích, lệ thụ bạch đào. Man vi tường, Thực dĩ trúc. Thị thức át, vi dữ hổ cận. Hỗn luân hồ vô lương tân khách xỉ. Hại mã chi đồ, cẩu hoạt vi hạnh, Khả mặc tức dĩ. Tác thi thị Tông Văn tụng.” 課隸人伯夷、辛秀、信行等入谷斬陰木。人日四根止。維條伊枚。正直挺然。晨征暮返。委積庭內。我有藩籬。是缺是補。載伐篠簜。伊杖支持。則旅次於小安。山有虎知禁。若恃爪牙之利。必昏黑搪突。夔人屋壁。例樹白萄。鏝為牆. 實以竹。示式遏。為與虎近。混淪乎無良賓客齒。害馬之徒。苟活為幸。可默息已。作詩示宗文誦 。 (Sai người làm là Bá Di với Tân Tú, cứ tự mình vào trong núi chặt cây hoang. Mỗi người trong ngày bốn gốc là ngưng. Cột cành vào thân cây, cho thật thẳng gọn. Sớm đi tối về, Mang chứa trong sân. Nhà ta có hàng dậu, chỗ thưa chỗ dày. Lại tỉa những cảnh nhỏ, cắm cọc để nâng cành, khiến cho việc cư ngụ nơi đất khách có chút yên tâm. Trong núi có hổ, cáo thị cấm vào. Như cậy có răng nhọn móng sắc, tất chờ đêm tối mà hoành hành. Tường nhà của người xứ Quỳ, thường trồng dây nho trắng, trát nó làm tường, lấy trúc làm cốt. Dùng nó để ng ăn, không cho hổ tới gần. Gớm ghê thay là bộ răng của vị khách gian manh này, nó là đồ phá hại, cứ nhằm nhằm cầu may, mà ngăn chặn được. Làm bài thơ này để răn bảo con trai Tông Văn đọc.)

[1] Quan huyện lúc đó là đô đốc Bá Mậu Lâm 柏茂琳.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Khoá phạt mộc