16/04/2024 13:47Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hạ tân lang - Tống Hồ Bang Hành đãi chế phó Tân Châu
賀新郎-送胡邦衡待制赴新州

Tác giả: Trương Nguyên Cán - 張元幹

Thể thơ: Từ phẩm; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Nam Tống, Kim
Đăng bởi Vanachi vào 01/02/2008 11:35

 

Nguyên tác

夢繞神州路,
悵秋風、
連營畫角,
故宮離黍。
底事崑崙傾砥柱,
九地黃流亂注,
聚萬落、
千村狐兔?
天意從來高難問,
況人情、
老易悲難訴!
更南浦,
送君去。

涼生岸柳催殘暑,
耿斜河、
疏星淡月,
斷雲微度。
萬里江山知何處?
回首對床夜語。
雁不到、
書成誰與?
目盡青天懷今古,
肯兒曹、
恩怨相爾汝!
舉大白,
聽金縷。

Phiên âm

Mộng nhiễu thần châu[1] lộ,
Trướng thu phong,
Liên doanh hoạ giốc,
Cố cung ly thử.
Để sự Côn Lôn khuynh Chỉ Trụ[2],
Cửu địa Hoàng lưu loạn chú,
Tụ vạn lạc[3],
Thiên thôn hồ thố[4]?
Thiên ý tòng lai cao nan vấn,
Huống nhân tình,
Lão dị bi nan tố!
Cánh nam phố[5],
Tống quân khứ.

Lương sinh ngạn liễu thôi tàn thử,
Cảnh tà hà,
Sơ tinh đạm nguyệt,
Đoạn vân vi độ.
Vạn lý giang sơn tri hà xứ?
Hồi thủ đối sàng dạ ngữ.
Nhạn bất đáo,
Thư thành thuỳ dữ?
Mục tận thanh thiên hoài kim cổ,
Khẳng nhi tào,
Ân oán tương nhĩ nhữ!
Cử đại bạch,
Thính "Kim lũ[6]".

Bản dịch của Nguyễn Xuân Tảo

Đất nước hồn gắn bó,
Giận gió thu,
Còi rúc liền doanh,
Cung xưa rậm cỏ.
Khéo chuyện núi nghiêng đá lở,
Khiến nước sông Hoàng tràn khắp chỗ,
Muôn xóm thôn,
Thành hang cáo thỏ.
Vốn biết trời cao không thể hỏi,
Huống nữa lòng người,
Đổi thay khôn tỏ.
Lại bến nam,
Tiễn bạn cũ.

Bờ liễu mát về xua nắng dữ,
Vằng vặc sông Ngân,
Sao thưa, trăng lạt,
Mây trôi đám nhỏ.
Sông núi muôn trùng đâu chỗ ở?
Đêm khuya truyện trên giường còn nhớ.
Nơi nhạn vắng,
Nhờ ai thư ngỏ?
Phóng mắt nhìn trời ngẫm kim cổ,
Há đâu ân oán,
Tuồng con đỏ.
Nâng bầu rượu,
Nghe khúc nọ.
Tân Châu nay thuộc huyện Tân Hội, Quảng Đông. Năm Thiệu Hưng thứ 8 (1138), Tần Cối 秦檜 làm tể tướng, lập tức phái Vương Luân 金國 sứ Kim cầu hoà khiến những người yêu nước phẫn hận. Hồ Bang Hành tức Hồ Thuyên 胡銓 là một nhân vật chống Kim đến cùng trong thời Tống Cao Tông, xin triều đình chém bọn Tần Cối, Vương Luân nhưng không được thuận, bị biếm chức, bốn năm sau (1142) tiếp tục bị đày đi Tân Châu. Trương Nguyên Cán làm bài từ này tiễn ông đi.


[1] Thần châu chỉ đất nước nói chung. Ở đây ý tác giả nói đi quanh nơi đất nước đã bị giặc chiếm.
[2] Núi Chỉ Trụ ở giữa sông Hoàng Hà. Ý nói, sông Hoàng Hà vốn bắt nguồn từ núi Côn Lôn, cớ sao giờ đây sông Chỉ Trụ lại nghiêng đổ để nước tràn ngập khắp nơi, cũng như nạn do giặc Kim gây ra.
[3] Tức thôn, đơn vị hành chính thời đó.
[4] Chỉ giặc Kim xâm lược.
[5] Bến nam chỉ chung nhưng nơi đưa tiễn, ở đây tác giả dùng chữ "cánh" (lại), ý nói đã tiễn nhiều người có chí chống Kim bị đày, tỏ ý thất vọng. Nam phố xuất phát từ "Cửu ca" của Khuất Nguyên: "Tử giao thủ hề đông hành, tống mỹ nhân hề nam phố" 子交手兮東行,送美人兮南浦.
[6] Tên khác của điệu "Hạ tân lang".

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Trương Nguyên Cán » Hạ tân lang - Tống Hồ Bang Hành đãi chế phó Tân Châu