20/04/2024 15:16Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Phụng tống Vương Tín Châu Cầm bắc quy
奉送王信州崟北歸

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 25/05/2015 06:47

 

Nguyên tác

朝廷防盜賊,
供給愍誅求。
下詔選郎署,
傳聲典信州。
蒼生今日困,
天子向時憂。
井屋有煙起,
瘡痍無血流。
壤歌唯海甸,
畫角自山樓。
白髮寐常早,
荒榛農復秋。
解龜踰臥轍,
遣騎覓扁舟。
徐榻不知倦,
穎川何以酬。
老塵彤管筆,
寒膩黑貂裘。
高義終焉在,
斯文去矣休。
別離同雨散,
行止各雲浮。
林熱鳥開口,
江渾魚掉頭。
尉佗雖北拜,
太史尚南留。
軍旅應都息,
寰區要盡收。
九重思諫諍,
八極念懷柔。
徙倚瞻王室,
從容仰廟謀。
故人持雅論,
絕塞豁窮愁。
復見陶唐理,
甘為汗漫遊。

Phiên âm

Triều đình phòng đạo tặc,
Cung cấp mẫn thù cầu.
Hạ chiếu tuyển lang thự,
Truyền thanh điển Tín Châu.
Thương sinh kim nhật khốn,
Thiên tử hướng thì ưu.
Tỉnh ốc hữu yên khởi,
Sang di vô huyết lưu.
Nhưỡng ca[1] duy hải điện,
Hoạ giác tự sơn lâu.
Bạch phát mị thường tảo,
Hoang trăn nông phục thu.
Giải quy[2] du ngoạ triệt[3],
Khiển kỵ mịch biển chu.
Từ tháp[4] bất tri quyện,
Dĩnh Xuyên hà dĩ thù.
Lão trần đồng quản bút,
Hàn nhị hắc điêu cừu.
Cao nghĩa chung yên tại,
Tư văn khứ hĩ hưu.
Biệt ly đồng vũ tán,
Hành chỉ các vân phù.
Lâm nhiệt điểu khai khẩu,
Giang hồn ngư trạo đầu.
[5] đà tuy bắc bái,
Thái sử thượng nam lưu.
Quân lữ ưng đô tức,
Hoàn khu yếu tận thu.
Cửu trùng tư gián tránh,
Bát cực niệm hoài nhu.
Tỉ ỷ chiêm vương thất,
Thung dung ngưỡng miếu mưu.
Cố nhân trì nhã luận,
Tuyệt tái khoát cùng sầu.
Phục kiến Đào Đường lý,
Cam vi hãn mạn du.

Dịch nghĩa

Triều đình lo phòng giặc giã,
Nên cần lo cung cấp chi phí cho việc quân.
Ra thông báo tuyển chọn người giúp việc nước,
Tiếng truyền tới vùng Tín Châu.
Ngày nay dân đen bị cùng khổ,
Thời trước các vua đều lo lắng.
Làng xóm tuy có khói bốc lên,
Nhưng đó là vết thương không đổ máu.
Nơi bờ biển xa dân chúng ca hát và chơi đánh khăng,
Âm thanh từ cái khèn có hoa văn phát ra nơi lầu trên núi.
Người già cả tóc bạc thường được đi ngủ sớm,
Cây trăn mọc hoang rậm rì cho đến mùa thu.
Từ quan thì dân nằm lăn cản bánh xe,
Sai quân kị tới thì chỉ thấy con thuyền nhỏ.
Cái giường dành cho Từ Trĩ không biết mỏi mệt,
Quận Dĩnh Xuyên lấy gì mà báo đáp lại.
Bụi kinh niên đóng bợn nơi quản bút đỏ,
Mồ hôi cáu ghét nơi áo lông điêu mầu đen.
Những người nghĩa khí cao vời cuối cùng ở nơi nào,
Cái nếp tốt đó thôi thế là hết.
Cuộc chia tay lần này giống như mưa rơi vậy,
Người ở lại hay kẻ ra đi thảy đều như mây trôi.
Trong rừng oi bức nên chim mới mở miệng kêu,
Nước sông đục nên cá cứ loi ngoi cái đầu.
Viên uý kia tuy quay về phía bắc mà vái,
Nhưng quan thái sử vẫn còn lưu lại ở miền nam.
Quân đội cần lo an dân,
Đất của vua cần thu lại đầy đủ.
Vua ngồi trên chín bệ phải nghĩ đến các quan can gián mình,
Khiến cho con dân tám hướng xa xôi vẫn nhớ tới ơn vua.
Trông ngóng cơ nghiệp nhà vua mà dạ thấy nao nao,
Cứ bình thản mà tin vào mưu cao của triều đình.
Ông bạn cũ này bàn luận rất vỡ vạc,
Ở chốn biên cương cùng cực này tôi giải toả được sầu.
Nếu mà thời Đường Nghiêu xưa, nay phục hồi lại,
Thì tôi xin cam chịu cái thân phận trôi nổi.

Bản dịch của Phạm Doanh

Nhà nước lo ngăn ngừa giặc cướp,
Cho nên cần thuế góp dồi dào.
Ra lệnh tuyển công chức nhiều,
Tin được truyền đến Tín Châu tức thời.
Dân đen ngày nay ôi khốn khổ,
Vua chúa xưa vẫn cứ lo âu.
Làng xóm toả khói lên cao,
Tuy không máu chảy, khổ đau ngất trời.
Tận cuối biển vang lời ca hát,
Tiếng tù và từ gác núi nghe.
Tóc bạc ngủ sớm li bì,
Ngoài đồng cỏ dại xanh rì quanh năm.
Từ quan, dân chúng nằm chặn lối,
Sai kỵ tới thấy cái thuyền con.
Giường Từ không cảm thấy phiền
Lấy gì đáp lại Dĩnh Xuyên cho vừa.
Cán bút son bụi xưa bám chặt,
Áo cừu đen cáu ghét bốc hơi.
Nghĩa lớn giờ ở đâu nơi,
Nếp xưa thôi thế là thôi hết rồi.
Chia tay với mưa rơi lả tả,
Ở hay đi: tất cả mây trôi.
Rừng nóng chim thét nên lời,
Nước sông đục vẩn cá loi ngoi đầu.
Viên uý kia tuy chầu hướng bắc,
Nhưng thái-sử vẫn mắc vùng nam.
Quân đội lo việc trị an,
Đất vua thu lại hoàn toàn mới xong.
Trên chín bệ đả thông can gián,
Để tám phương nhớ đến ơn sâu.
Ngóng ngôi vua, dạ nao nao,
Kiên tâm trông đợi mưu cao triều đình.
Người bạn xưa bàn rành luận rọt,
Chốn địa đầu tôi hết buồn rầu.
Nếu mà lại thấy thời Nghiêu,
Cũng xin cam phận cứ phiêu lưu hoài.
(Năm 767)

[1] Thời Đường Nghiêu, nhà nông sau kỳ canh tác, có thì gian nhàn nhã, giải trí bằng trò đánh khăng (kích nhưỡng) và vui ca, cảm vì ân đức vua Nghiêu. Sau này dùng chỉ cảnh thái bình thịnh trị.
[2] Nói gọn của “giải hạ quy ấn” 解下龜印, từ quan.
[3] Tích Hầu Bá 侯霸 thời Đông Hán, giữ chức thái thú Hoài Dương, bị trưng dụng về kinh đô, trăm họ khóc lóc ngăn cản xe sứ, nằm lăn xuống đường, xin giữ Bá lại thêm một năm nữa.
[4] Giường của Trần Phồn giành cho Từ Trĩ 徐稺.
[5] Chỉ bọn Thôi Hãn 崔旰, sau này làm loạn, nổi lên giết quan đầu huyện.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Phụng tống Vương Tín Châu Cầm bắc quy