25/04/2024 05:05Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tịnh cư ninh thể phú

Tác giả: Nguyễn Hãng - 阮沆

Thể thơ: Phú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 18/09/2014 00:27

 

Yêu thay miền thôn tịch;
Yêu thay miền thôn tịch!

Cư xử dầu lòng;
Ngao du mặc thích.

Khéo chiều người mến cảnh yên hà;
Dễ quyến khách vui miền tuyền thạch.

Xó xỉnh góc trời mom đất, một bầu thu cảnh mọn hẹp hòi;
Áy o ruộng núi vườn đèo, bốn mùa đủ thứ vui cọc cạch.

Nhưng nhưng thói dật hằng vui;
Văng vẳng bụi trần dễ cách.

Vậy nên:
Dưỡng tính khề khà;
Náu thân ngờ nghệch.

Lều bạch mao[1] mảng học chàng Tôn[2];
Miền lục dã[3] biếng tìm người Tịch[4].

Che khỏi nắng mưa dầu vậy, trên kết tranh mấy tấm bơ sờ;
Dung vừa ngồi đứng thời thôi, dưới cắm sậy ba gian rộc rệch.

Song sớm để bình non[5] vây lại, đặt phên dậu thấp sè;
Cửa hôm dầu đèn Nguyệt soi vào, rủ bức rèm thưa thếch.

Khách nhàn họp ba chồi cúc muộn, đứng dựa bên thềm;
Bạn lão sum mấy gốc mai già, chen kề tận ngạch.

Gió nhân[6] là quạt mát, điểm trần ai thay thảy tan không;
Nước trí[7] ấy gương trong, miền tục luỵ lâng lâng rửa sạch.

Hàng trúc ngăn nửa cửa, nửa sân;
Lá bồng dắt làm tường, làm vách.

Cánh sài môn[8] hé nửa, đi sẽ nghiêng lưng;
Bức thổ chướng[9] dáng ngang, đứng vừa cạp nách.

Cảnh hẹp lòng càng rộng, mắc tới lui hằng đủ hằng vui;
Nhà thấp đạo càng cao, dù cúi ngửa chi hiềm chi trách.

Ta thường:
Vấn khăn gốc[10] đen sì;
Vận quần nâu đỏ quạch.

Mũ để ngăn sương chống tuyết, mũ mỏng bao sang sửa cánh dơi[11];
Áo vừa ấm cật che hình, áo chẳng lọ phủ phê chân bịch[12].

Hạ làm màn, đông làm nệm mấy lần sô[13] coi đã hẩm sì;
Tay là túi, vạt là khăn ba bức thổn[14] mặc dầu cũ rích.

Nằm võng tre ngấn cật[15] vằn vè;
Đi guốc gỗ nhịp chân lạch đạch.

Ăn thì:
Tương hạnh chua lòm;
Muối vầu nhạt thếch.

Sớm ba chén chè sen mát ruột, nài chi vò đất hẩm hiu;
Bữa vài lưng cơm lốc no lòng, sá quản mâm đan xộc xệch.

Vị tươi thường ngọn quất lá vi;
Miếng ngon đủ nhân tùng, hạt bách.

Tiệc vầy tiên tử, một niêu canh cẩu kỷ[16] chát sì;
Yến thiết cố nhân, lưng bầu rượu xương bồ[17] cay rách.

Thuốc phì phèo quản sậy điếu tre;
Trầu phúm phím vỏ da rễ quạch.

Ép dưa măng, mài bột củ, những giao cho mụ lão lom khom;
Quét sân lá, hái nương dâu, dầu phó mặc thằng đồng lách chách.

Trong thì:
Dấu ngựa xe chẳng đến, cỏ bén hơi xuân;
Bạn viên hạc quen thu, hoa cười đón khách.

Cầm một chương, thơ mấy quyển, đủ tháng ngày ngâm ngợi, ấy thú mầu ông Mạnh Hạo Nhiên[18];
Lan chín khóm, cúc ba hàng, dõi hôm sớm bù trì, này của báu ông Đào Bành Trạch[19].

Ngoài thì:
Rườm rà hàng cổ thụ, lồng những tán dù;
Quanh quất dải kỳ phong[20], bao làm thành quách.

Vượn chào hoà khiếu hót, cách ngàn đưa khúc xướng khúc ca;
Suối chảy lẫn thông reo, bên tai dõi nhịp đàn nhịp phách.

Chợ chân tời mây họp đùn đùn;
Chày sườn núi nước đâm thình thịch.

Khi thì:
Cầm quạt lá xênh xang;
Quảy túi thơ xốc xếch.

Léo đẽo thằng hề mọn[21], trước ngàn mai thơ thẩn đứng chờ;
Lẳng khẳng cái lừa gầy[22], bên rừng trúc dần dà sẽ lách.

Hem hẻm đường mây lần bước, đứng nhìn non gió thổi hiu hiu;
Phây phây sườn núi rũ dầu, ngồi xem ác[23] bóng đà chênh chếch.

Nghiêng giỏ hái rau nương quế, đủng đỉnh nách mang;
Treo bầu chắt nước suối khe, thảnh thơi tay xách.

Quét am tiên sớm để luyện đan;
Tựa toà đá hôm dầu xem sách.

Nương gậy tre, giày[24] dép cỏ, thửa bước khoan đủng đỉnh, ngồi bên khe nhịp miệng hát ngao;
Rải chiếu lá, ngả giường song, khi hóng mát la cà, về dưới cửa vắt chân nằm đạch.

Tính lặng dễ say mùi đạo, gối quyển vàng giấc ngủ ngáy o o;
Mệnh yên xảy tỉnh lòng trần, trỏ mây bạc vỗ tay cười khanh khách.

Nghiệm thuở hoa tàn nhị nở, biết tuế thời[25] sớm muộn, điểm tay suy Giáp Tý[26] lân la;
Xem khi yến tới, nhạn về, dòm khí hậu đổi thay, vui dạ nói dương xuân thóc mách.

Của thiên nhiên, bạc tuyết đủ dùng;
Giàu thổ sản, tiền rêu để tích.

Phương nhân nghĩa để hoà dưỡng tính, báu nhi tôn tráp hãy nặng trầm;
Chữ thanh nhàn nào phải mua ai, tiền mẫu tử túi dầu xóc xách.

Cỏ cây thương vì tính lãn dung[27];
Nước non thấu thửa lòng thanh bạch.

Cầm lầu canh ẩn dật, đành hanh rừng gióng điệu chim;
Gảy khúc nhạc ưu du, đồng vọng ao khua trống ếch.

Xem một phút diều bay cá nhảy[28] đành hay lý ngu huyền vi;
Thấy hai vừng thỏ lặn ác soi[29], đã biết thửa cơ biến dịch.

Thả lòng tham, khơi nguồn dộc, vũng con con thả muống một bè;
Dứt mối tưởng, dũ niềm sầu, vườn mọn mọn trồng huyên[30] mấy rạch.

Cảnh chắt chiu nương đậu nương khoai;
Mùa đắp đổi hàng kê hàng mạch.

Cày lũng tuyết sớm giong đủng đỉnh, trải thung chè, trèo đèo sở[31], nẻo tắt hình gối hạc ngẳng nghiu;
Hái củi mây hôm quảy xênh xang, qua dặm liễu, tới ngàn sam, đường uốn khúc ruột dê ngóc ngách.

Dù ai thăm hỏi nguồn cơn;
Mặc kẻ đón tìm dấu tích.

Lắng tai mỏng rành rành lời trước, phải đoái thương tính mệnh, ngoại vật dầu lọn thửa thờ ơ;
Kẻo mình còn lúc nhúc tài hèn, luống dày đội kiền khôn, trong đời chửa chút chi bổ ích.

Mênh mông miền bể bạc, màng rủ rê chi giống dầu dầu[32];
Chất ngất dặm rừng xanh, sá tìm tòi chi loài chích chích[33].

Tuy ngày tháng đà ngày tháng Thuấn, đâu cũng vầng chiếu đất thênh thênh;
Song nước non còn nước non Nghiêu, ta thường vỗ bụng[34] rau phạch phạch.

Người chẳng thấy:
Cánh buồm nhẹ rong chơi bể Bắc[35], kìa anh lánh đục về trong;
Cuộc cờ tàn nằm mát non Đông[36], nọ kẻ phù nghiêng chữa lệch.

Dở dang tuồng canh, mục, ngư, tiều[37];
Pha phách thói nho, y, đạo, thích[38].

Tựa mây tắm suối, miễn được tiêu dao;
Nương giá phù xa[39], xá gì bộc bạch.

Thong thả một năm mười hai tháng, gặp thời bình trị được làm người;
Ngao du ba vạn sáu ngàn ngày, tới cõi tràng sinh càng dõi mạch.

Dù ai cười thơ thẩn ngẩn ngơ;
Thì ta cũng ngô nghê ngốc nghếch.
Bài do An Sơn Phạm Trần Đĩnh sao lục. Tiêu đề có nghĩa là ẩn cư ở nơi hẻo lánh cho yên thân.

[1] Cỏ tranh.
[2] Tức Tôn Khang, người đời Tấn, nhà nghèo, tính chăm học, đêm không có đèn, về mùa đông nhờ ánh sáng tuyết để đọc sách.
[3] Đồng cỏ xanh.
[4] Tức Nguyễn Tịch, người cuối đời Tam Quốc, là một trong Trúc Lâm thất hiền, tính tình phóng đạt, ngông cuồng, khinh thường phú quí, thích uống rượu và đàn luận học thuyết Lão Trang. Hai câu này tác giả có ý nói không câu thúc chăm học như Tôn Khang và cũng không phóng dật, ngông cuồng như Nguyễn Tịch, chỉ muốn ở một nơi vắng vẻ, hẻo lánh cho yên thân mà thôi.
[5] Dãy núi đứng chắn phía trước như cái bình phong.
[6] Do chữ Hán “nhân phong”, ý nói nhân đức có thể phổ cập khắp mọi nơi như gió trời.
[7] Do chữ Hán “trí thuỷ”. Sách luận ngữ có câu “Trí giả nhạo thuỷ”, nghĩa là người có trí thường ưa thích nước (người có trí là người thông đạt sự lý, trôi chảy, giống như tính chất nước, cho nên thích nước).
[8] Cửa làm bằng những đoạn củi gỗ tạp.
[9] Bức tường bằng đất.
[10] Gốc là phần cuối của đoạn tơ, to và rắn, thứ tơ này khi dệt ra không được mịn mặt. Khăn gốc là khăn dệt bằng tơ gốc.
[11] Ý nói cái mũ mỏng mảnh như cánh dơi.
[12] Là cái bồ to đựng thóc có chân xoè ra.
[13] Vải sợi to dệt thưa.
[14] Tên một thứ vải nhỏ sợi.
[15] Ý nói nằm võng tre in vết hằn trên lưng.
[16] Một thứ rau tự nhiên thường dùng nấu canh ăn, hạt nó là cẩu kỷ tử dùng làm thuốc bổ thận.
[17] Một vị thuốc vị cay, khí ôn, có tính chất bổ tâm ich trí, trừ phong. Người ta thường dùng ngâm rượu uống.
[18] Nhà thơ nổi tiếng đời Đường Huyền Tông, ẩn cư ở núi Lộc Môn.
[19] Tức Đào Tiềm. Bành Trạch là tên đất. Đào Tiềm đời Tấn, tự Uyên Minh, bỏ quan về ở ẩn, làm bài Quy khứ lai từ tỏ ý chí mình.
[20] Ngọn núi lạ, đẹp.
[21] Chú hề đồng nhỏ bé.
[22] Con lừa gầy.
[23] Mặt trời.
[24] Là động từ với ý nghĩa mang, đi giày dép.
[25] Tuế là năm, thời là mùa.
[26] Can và chi, ý nói ngày tháng.
[27] Lười trang điểm sửa sang bề ngoài.
[28] Theo sách Trung dung, Tử Tư dẫn câu “diên phi lệ thiên, ngu dược vu uyên” ở thơ Hạn lộc từ Đại nhã - Kinh thi để chứng tỏ rằng đạo trời sâu xa mầu nhiệm, tồn tại trong muôn sự, muôn vật, như diều bay trên trời, cá nhảy dưới vực, đều là đạo trời đất cả.
[29] Mặt trăng lặn, mặt trời mọc.
[30] Tên một thứ cỏ, tức cây hoa hiên, người xưa cho rằng trồng nó có thể quên lo phiền.
[31] Đèo trồng cây sở, một loại cây lấy hạt ép dầu.
[32] Một loại cá rất nhỏ, ý nói hạng người tầm thường.
[33] Loài chim nhỏ như chim sâu, ý nói loại người tầm thường.
[34] Bởi chữ “cổ phúc”. Theo Sử ký, đời vua Nghiêu nhà Đường, thiên hạ bình trị, nhân dân yên vui, có một ông già ngậm miếng cơm (hàm bô), tay vỗ bụng (cổ phúc) đi rong chơi mà hát ở ngoài đường. Ý nói cảnh thái bình no ấm.
[35] Bá Di lánh nạn đời vua Trụ, ở bãi bể bên bắc, đến khi có Chu Văn Vương lên làm Tây bá, liền theo về với Văn Vương (sách Mạnh Tử).
[36] Tạ An, tự Anh Thạch, người đời Tấn, ẩn ở núi Đông Sơn. Mấy lần vua mời ra làm quan, không chịu ra. Đời bấy giờ các sĩ phu đã có câu nói: “An Thạch không ra giúp đời thì dân chúng trông cậy vào đâu?” Về sau, Hoàn Ôn mời mãi, An Thạch mới chịu ra, làm chức Tư mã, rồi làm Tể tướng. Khi Bồ Kiên nước Tần vào đánh nước Tấn, An chỉ huy trận đánh ở Phì Thuỷ (Hợp Phì) phá tan một trăm vạn quân địch.
[37] Người đi cày, người chăn trâu, người đánh cá, người hái củi.
[38] Người học Nho, người làm thuốc, người theo Đạo tiên, người theo Đạo Phật.
[39] Xa giá là xe vua đi, ý nói là theo phò vua.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Hãng » Tịnh cư ninh thể phú