30/03/2024 03:15Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tác giả: Nguyễn Bỉnh Khiêm - 阮秉謙

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 17/07/2007 21:05

 

Phiên âm

Âm dương hoà hợp vận huyền ky (cơ),
Giải tác cam lâm hỷ cập thì.
Bái tự cửu thiên ân ký ốc,
Nhuận triêm thứ thổ vật hàm nghi.
Dân tô nghê[1] vọng vương sư chí,
Sĩ hấp phong thành thánh giáo thi.
Vũ thuận cố đăng kim thượng thuỵ,
Thái Bình hựu nhất thử hưu kỳ.

Dịch nghĩa

Máy huyền diệu chuyển vận, âm dương hoà hợp,
Mừng được kịp thời vụ, phát ra trận mưa ngọt.
Rào rạt tự chín tầng trời, ơn đã đầy rẫy,
Thấm nhuần mọi khoảng đất, mọi vật thoải mái.
Để được sống, dân mong quân nhà vua đến như đợi mống,
Kẻ sĩ hợp nên phong hoá thi hành được giáo hoá của thánh nhan.
Mưa thuận hoà, lúc được mùa, đó là điềm lành của nhà vua,
Thái bình đây lại là một thời kỳ tốt đẹp.

Bản dịch của Đinh Gia Khánh

Hoà hợp âm dương, máy chuyển vần,
Mừng cơn mưa ngọt, tưới vừa tuần.
Chín trời đày rẫy, ơn tràn khắp,
Muôn vật xênh xang, đất thấm nhuần.
Gặp hạn, chờ mưa, dân đợi cứu,
Nên phong, thành giáo, sĩ chung phần.
Điềm lành mùa tốt, nhờ mưa thuận,
Cảnh thái bình, đây lại một lần.
[1] Tô là sống lại, nghê là cầu vồng, mống là ráng mây. Vua Thành Thang đánh vua Hạ Kiệt tàn bạo, dân ngóng trông quân vua Thành Thang đến, có lời rằng: "Hề ngã hậu, hậu lai kỳ tô", nghĩa là: Đợi vua ta đến, vua ta đến thì dân ta được sống lại. Sách Mạnh Tử viết rằng: "Dân vọng chi nhược đại hạn chi vọng vân nghè", nghĩa là: Dân mong đợi như khi đại hạn mà mong có mây, có mống.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Bỉnh Khiêm » Vũ