28/04/2024 05:33Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hồi 04

Tác giả: Nguyễn Du - 阮攸

Thể thơ: Lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 30/06/2005 11:08

 

Đây đó đồng tâm, cầu Lam đà tiện nẻo
Vui cười đứng mực, ngọc bích vẫn nguyên mầu
(Câu 239-526)


Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng
240. Nách tường bông liễu bay sang láng giềng
Hiên tà bóng gác nghiêng nghiêng
Nỗi riêng, riêng chạnh tắc riêng một mình.
Cho hay là giống hữu tình
Đố ai gỡ mối tơ mành[1] cho xong
245. Chàng Kim từ lại thư song[2]
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây[3]
Sầu đong càng lắc càng đầy[4],
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!
Mây tần khoá kín song the[5]
250. Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao
Tuần trăng khuyết[6], đĩa dầu hao[7],
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.
Buồng văn hơi lạnh như đồng
Trúc se ngọn thỏ, tơ trùng phím loan[8]
255. Mành Tương[9] phơn phớt gió đàn
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình:
Ví chăng duyên nợ ba sinh[10],
Làm chi những thói khuynh thành trêu ngươi?
Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người,
260. Nhớ nơi kỳ ngộ[11] vội dời chân đi
Một vùng cỏ mọc xanh rì,
Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu!

Gió chiều như gợi cơn sầu
Vi lô[12] hiu hắt như mầu khơi trêu
265. Nghề riêng nhớ ít, tưởng nhiều,
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều[13] dần sang
Thâm nghiêm, kín cổng, cao tường,
Cạn dòng lá thắm[14], dứt đường chim xanh[15].
Lơ thơ tơ liễu buông mành
270. Con oanh học nói trên cành mỉa mai
Mấy lần cửa đóng then cài
Đầy thềm hoa rụng, biết người ở dâu?
Tần ngần đứng suốt giờ lâu
Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà
275. Là nhà Ngô Việt thương gia[16],
Buồng không để đó, người xa chưa về
Lấy điều du học hỏi thuê
Túi đàn, cặp sách, đề huề dọn sang
Cỏ cây, cỏ đá[17] sẵn sàng
280. Có hiên Lãm Thuý[18], nét vàng chưa phai.
Mừng thầm chốn ấy chữ bài[19]
Ba sinh âu hẳn duyên Trời chi đây!
Song hồ[20] nửa khép cánh mây[21]
Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông
285. Tấc gang đồng toả nguyên phong
Tịt mù nào thấy bóng hồng vào ra[22]
Nhẫn từ[23] quán khách lân la,
Tuần trăng thấm thoát nay đà thêm hai
Cách tường phải buổi êm trời,
290. Dưới đào đường có bóng người thướt tha
Buông cầm, xóc áo, vội ra,
Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh
Lần theo tường gấm[24] dạo quanh
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa[25]
295. Giơ tay với lấy về nhà:
Này trong khuê các[26], đâu mà đến đây?
Gẫm âu người ấy, báu này
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!
Liền tay ngắm nghía biếng nằm
300. Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai.
Tan sương đã thấy bóng người
Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ
Sinh đà có ý đợi chờ,
Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng:
305. Thoa này bắt được hư không[27],
Biết đâu Hợp Phố[28] mà mong châu về?
Tiếng Kiều nghe lọt bên kia:
Ơn lòng quân tử sá gì của rơi,
Chiếc thoa nào của mấy mươi,
310. Mà lòng trọng nghĩa, khinh tài xiết bao!
Sinh rằng: Lân lý[29] ra vào,
Gần đây nào phải người nào xa xôi
Được rày nhờ chút thơm rơi
Kể đà thiểu não lòng người bấy nay!
315. Bấy lâu mới được một ngày
Dừng chân gạn chút niềm tây[30] gọi là.
Vội về thêm lấy của nhà,
Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông
Bậc mây[31] đón bước ngọn tường,
320. Phải người hôm nọ[32] rõ ràng chẳng nhe[33]!
Sượng sùng giữ ý rụt rè
Kẻ[34] nhìn rõ mặt, người[35] e cúi đầu
Rằng: Từ ngẫu nhĩ[36] gặp nhau,
Thầm trông, trộm nhớ, bấy lâu đã chồn[37]
325. Xương mai[38] tính đã rũ mòn[39]
Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay!
Tháng tròn như gửi cung mây[40]
Trần trần một phận ấp cây đã liều!
Tiện đây xin một hai điều,
330. Đài gương[41] soi đến dấu bèo[42] cho chăng!
Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
Thói nhà băng tuyết[43], chất hằng phỉ phong[44]
Dầu khi lá thắm[45] chỉ hồng[46]
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha
335. Nặng lòng xót liễu vì hoa
Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!
Sinh rằng: Rày gió, mai mưa
Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi!
Dù chăng[47] xét tấm tình si
340. Thiệt đây mà có ích gì đến ai?
Chút chi gắn bó một hai
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh
Khuôn thiêng[48] dầu phụ tấc thành[49]
Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời
345. Lượng xuân[50] dầu quyết hẹp hòi
Công đeo duổi chẳng thiệt thòi lắm ru!
Lặng nghe lời nói như ru
Chiều xuân[51] dễ khiến, nét thu[52] ngại ngùng
Rằng: Trong buổi mới lạ lùng,
350. Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang!
Đã lòng quân tử đa mang
Một lời vâng tạc đá vàng[53] thuỷ chung.

Được lời như cởi tấm lòng
Giở kim thoa với khăn hồng trao tay
355. Rằng: Trăm năm cũng từ đây,
Của tin, gọi một chút này làm ghi.
Sẵn tay khăn gấm, quạt quì[54],
Với cành thoa ấy tức thì đổi trao
Một lời gắn bó tất giao[55]
360. Mái sau dường có xôn xao tiếng người
Vội vàng lá rụng hoa rơi
Chàng về viện sách, nàng dời lầu trang[56]
Từ phen đá biết tuổi vàng[57]
Tình càng thắm thía dạ càng ngẩn ngơ
365. Sông Tương[58] một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia
Một tường tuyết trở sương che[59]
Tin xuân đâu dễ đi về cho năng
Lần lần ngày gió đêm trăng
370. Thưa hồng, rậm lục[60], đã chừng xuân qua
Ngày vừa sinh nhật ngoại gia,
Trên hai đường[61], dưới nữa là hai em
Tưng bừng sắm sửa áo xiêm
Biện dâng một lễ xa đem tấc thành
375. Nhà lan[62] thanh vắng một mình
Ngẫm cơn hội ngộ đã đành hôm nay
Thì trân[63] thức thức sẵn bày
Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường
Cách hoa sẽ đặng tiếng vàng
380. Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông
Trách lòng hờ hững với lòng
Lửa hương[64] chốc để lạnh lùng bấy lâu
Những là đắp nhớ đổi sầu
Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm[65].
385. Nàng rằng: Gió bắt mưa cầm,
Đã cam tệ với tri âm[66] bấy chầy
Vắng nhà được buổi hôm nay
Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng.

Lần theo núi giả[67] đi vòng,
390. Cuối tường dường có nẻo thông mới rào;
Xắn tay mở khoá động Đào[68],
Rẽ mây trong tỏ lối vào Thiên Thai[69].
Mặt nhìn mặt, càng thêm tươi
Bên lời vạn phúc[70], bên lời hàn huyên
395. Sánh vai về chốn thủ hiên
Góp lời phong nguyệt[71], nặng nguyền non sông
Trên yên[72] bút giá[73] thi đồng[74]
Đạm thanh[75] một bức tranh tùng treo lên
Phong sương[76] được vẻ thiên nhiên
400. Mặt khen nét bút càng nhìn càng tươi
Sinh rằng: Phác hoạ vừa rồi
Phẩm đề[77] xin một vài lời thêm hoa[78].

Tay tiên[79] gió táp mưa sa,
Khoảng trên, dừng bút thảo và bốn câu
405. Khen: Tài nhả ngọc phun châu[80],
Nàng Ban[81], ả Tạ[82] cũng đâu thế vầy!
Kiếp tu xưa ví chưa dày,
Phúc nào nhắc được giá này cho ngang!
Nàng rằng: Trộm liếc dung quang,
410. Chẳng sân ngọc bội[83] thời phường Kim Môn[84]
Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn
Khuôn xanh[85] biết có vuông tròn mà hay?
Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
Có người tướng sĩ[86] đoán ngay một lời:
415. Anh hoa[87] phát tiết ra ngoài
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa
Trông người lại nghĩ đến ta
Một dày, hai mỏng, biết là có nên?
Sinh rằng: Giải cấu[88] là duyên,
420. Xưa nay nhân định thắng thiên[89] cũng nhiều
Ví dầu giải kết[90] đến điều
Thì đem vàng đá mà liều với thân.

Đủ điều trung khúc[91] ân cần
Lòng xuân phơi phới, chén xuân tàng tàng[92]
425. Ngày vui ngắn chẳng đầy gang[93]
Trông ra ác đã ngậm gương non đoài
Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai
Giã chàng, nàng mới kíp dời song sa[94]
Đến nhà vừa thấy tin nhà
430. Hai thân[95] còn giở tiệc hoa chưa về
Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa[96] gương giọi đầu cành
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh[97] hắt hiu
435. Sinh vừa tựa án thiu thiu
Giở chiều như tỉnh, giở chiều như mê
Tiếng sen[98] sẽ động giấc hoè[99]
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần[100]
Bâng khuâng đỉnh Giáp[101] non Thần[102]
440. Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng
Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa
Bây giờ rõ mặt mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?
445. Vội mừng làm lễ rước vào
Đài sen[103] nối sáp, song đào[104] thêm hương
Tiên thề[105] cùng thảo một chương
Tóc mây một món, dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
450. Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng[106] đến xương
Chén hà[107] sánh giọng quỳnh tương[108]
Dải là hương lộn bình gương bóng lồng[109]
455. Sinh rằng: Gió mát trăng trong

Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam;
Chày sương[110] chưa nên cầu Lam[111]
Sợ lần khân quá ra sàm sỡ[112] chăng?
Nàng rằng: Hồng diệp[113], xích thằng[114]
460. Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri[115]
Đừng điều nguyệt nọ hoa kia[116]
Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai.
Rằng: Nghe nổi tiếng Cầm đài[117]
Nước non[118] luống những lắng tai Chung Kỳ

465. Thưa rằng: Tiện kỹ[119] sá chi!
Đã lòng dạy đến, dạy thì phải vâng.
Hiên sau treo sẵn cầm trăng[120]
Vội vàng sinh đã tay nâng ngang mày[121]
Nàng rằng: Nghề mọn riêng tay
470. Làm chi cho bận lòng[122] này lắm thân?
So dần dây vũ dây văn[123]
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương[124]
Khúc đâu Hán Sở chiến trường[125]
Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng[126] chen nhau
475. Khúc đâu Tư mã phượng cầu[127]
Nghe ra như oán như sầu phải chăng?
Kê Khang[128] này khúc Quảng Lăng[129]
Một rằng Lưu thuỷ[130], hai rằng Hành vân[131]
Quá quan[132] này khúc Chiêu Quân[133]
480. Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối[134] mới xa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa
485. Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu
Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi vò chín khúc[135], khi chau đôi mày
Rằng: Hay thì thật là hay,
490. Nghe ra ngậm đắng, nuốt cay thế nào!
So chi những bậc tiêu tao[136]
Dột[137] lòng mình cũng nao nao[138] lòng người
Rằng: Quen mất nết đi rồi
Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao!
495. Lời vàng[139] vâng lĩnh ý cao,
Hoạ dần dần bớt chút nào được không.
Hoa hương[140] càng tỏ thức hồng[141]
Đầu mày, cuối mắt, càng nồng tấm yêu
Sóng tình dường đã xiêu xiêu
500. Xem trong âu yếm có chiều lả lơi
Thưa rằng: Đừng lấy làm chơi[142],
Để cho thưa hết một lời đã nao!
Vẻ chi một đoá yêu đào[143]
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh
505. Đã cho vào bậc bố kinh[144]
Đạo tòng phu[145], lấy chữ trinh làm đầu
Ra tuồng trên Bộc trong dâu[146]
Thì con người ấy ai cầu làm chi!
Phải điều ăn xổi ở thì
510. Tiết trăm năm, nỡ bỏ đi một ngày!
Ngẫm duyên kỳ ngộ[147] xưa nay
Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương[148]
Mây mưa đánh đổ đá vàng[149]
Quá chiều nên đã chán chường yến anh[150]
515. Trong khi chắp cánh liền cành[151]
Mà lòng rẻ rúng đã đành một bên!
Mái tây[152] để lạnh hương nguyền[153],
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng
Gieo thoi[154] trước chẳng giữ giàng
520. Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
Vội chi ép liễu hoa nài
Còn thân còn một đền bồi có khi.

Thấy lời đoan chính dễ nghe
Chàng càng thêm nể, thêm vì[155] mười phân.
525. Bóng tàu[156] vừa lạt vẻ ngân[157]
Tin đâu đã thấy cửa ngăn gọi vào.
[1] Sợi tơ mong manh. Hai chữ này chỉ chung Kiều và Kim Trọng để kết thúc đoạn nói về Kim Trọng.
[2] Chỗ cửa sổ phòng đọc sách.
[3] Không khuây, không nguôi.
[4] Ý nói mối sầu tương tư, càng ngày càng chồng chất lên mãi.
[5] Câu này ý nói: Mây che kín cửa sổ phòng Kiều.
[6] Khuyết hết cả một tuần trăng (cứ mỗi kì trăng tròn, gọi là một tuần trăng). Chỉ thời gian suốt cả tháng.
[7] Đĩa dầu hao cạn (vì đèn bị thắp khuya).
[8] Ý cả câu: Bút để lâu không viết đến ngọn bị khô đi, đàn để lâu không gẩy đến dây bị chùng lại. Ý nói Kim Trọng buồn trong tương tư, bỏ cả việc học hành và gẩy đàn.
[9] Mành làm bằng trúc núi Tương.
[10] Do chữ Tam sinh, nghĩa là ba kiếp luân chuyển: “Quá khứ”, “hiện tại” và “vị lai” của con người.
[11, 147] Cuộc gặp gỡ kỳ lạ, chỉ cuộc nhân duyên tốt đẹp của đôi tài tử giai nhân.
[12] Cây lau, cây sậy.
[13] Vùng đất thuộc Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc). Bùi Hàng, đời Đường, khi thi hỏng về, gặp Vân Kiều tặng bài thơ, có câu: “Lam Kiều tiện thị thần tiên quật, hà tất khi (kì) khu thướng ngọc kinh” (cầu Lam là cái tổ tiên đó, hà tất phải vất vả lên đế đô để thi cử làm gì). Về sau, Hàng đi qua một nơi, gọi là Lam Kiều, khát nước, vào xin nước một nhà bà lão gần đấy thấy Vân Anh, (em Vân Kiều), cháu gái bà, người tuyệt đẹp, Hàng ngỏ ý cầu hôn, bà lão bảo: Bà cân dùng cối ngọc và chày ngọc để giã thuốc huyền sương (thứ thuốc tiên), nếu có những thứ ấy làm sính lễ sẽ gả con cho. Hàng về tìm được cối và chày ngọc đưa đến, lại ở đấy giã thuốc cho bà lão một trăm ngày, rồi lấy Vân Anh và sau hai vợ chồng cùng lên cõi tiên. ở đây, Lam Kiều chỉ chỗ nhà ở của Kiều.
[14, 45] Do chữ Hồng diệp. Vu Hựu đời Đường một hôm đi chơi, bắt được chiếc lá đỏ trôi trên ngòi nước từ cung vua chảy ra. Trên lá có đề một bài thơ, Vu Hựu bèn để lại hai câu thơ vào chiếc lá đỏ khác, rồi đem thả nơi đầu ngòi nước, cho trôi vào cung vua. Hàn thị, người cung nữ thả lá đỏ khi trước, lại bắt được lá đỏ của Vu Hựu. Về sau, nhờ dịp vua phóng thích cung nữ, Vu Hựu lấy được Hàn thì.
[15] Người ta thường gọi sứ giả đưa tin là “chim xanh” (thanh điểu). Câu này ý nói: Khó thông tin tức mối manh với Thuý Kiều.
[16] Nhà đi buôn ở nước Ngô, nước Việt (đi buôn xa, nay Ngô, mai Việt).
[17] Đây chỉ núi giả (ta thường gọi là núi non bộ) do những tảng đá xếp thành.
[18] Tên cái hiên của nhà Ngô Việt thương gia. Vì có chữ Thuý trùng với một chữ trong tên Kiều nên Kim Trọng mới mừng thầm là có duyên số tiên định.
[19] Bày ra, xếp đặt sẵn, do chữ “an bài”.
[20] Cửa sổ dán giấy.
[21] Cánh cửa sổ.
[22] Ý nói: Cửa động bị khoá, cửa nguồn bị ngăn, cho nên tuy nhà Kiều gần có ganh tấc, mà vẫn là xa xôi cách trở.
[23] Kể từ khi (tiếng cổ).
[24] Do chữ cẩm tường, bức tường gạch có vẽ hoa như gấm (một cách tô điểm văn hoa).
[25] Cái thoa gài tóc bằng vàng.
[26] Buồng lầu, nơi ở của con gái nhà sang trọng.
[27] Bỗng không, tự nhiên.
[28] Tên một quận, trước thuộc Giao châu, nay thuộc tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Theo Hán sử: Nguyên xưa, ven bể quận Hợp Phố có loại trai sinh ra một loại ngọc quý, nhưng vì bọn quan tước tham nhũng, bắt nhân dân đi mò ngọc cho chúng, dân tình khổ cực, nên ngọc trai biến đi nơi khác hết. Về sau, có vị quan thanh liêm là Mạnh Thường đến nhận chức, cải cách, chính sự, bãi lệnh mò ngọc, thì ngọc trai lại dần dần trở về. Do đó, người ta thường nói “Châu về Hợp Phố” (Hợp Phố châu hoàn), để chỉ những trường hợp vật báu đã bị mất lại trở về với chủ cũ.
[29] Nguyên nghĩa là xóm và làng, đây dùng như nghĩa bà con láng giềng.
[30] Nỗi lòng, chút tâm sự riêng.
[31] Do chữ “vân thê”, nguyên là một khí cụ của quân đội thời dùng để trèo vào thành bên địch (thanh cao, tưởng có thể bắc tới mây được).
[32] Người gặp gỡ hôm đi thanh minh.
[33] (Từ cổ) phải chăng là.
[34, 35] Kẻ: Chỉ Kim Trọng. Người: Chỉ Kiều, Kim Trọng nhìn tỏ mặt Kiều, mà Kiều thì e thẹn cúi đầu.
[36] Tình cờ, cũng như “ngẫu nhiên”.
[37] Mệt mỏi, ý nói sốt ruột lắm.
[38] Xương vóc gầy. Cây mai, thân và cành nhỏ bé, nên người ta thường gọi những người xương vóc gầy là mai cốt (xương mai).
[39] Gầy mòn, ý nói tương tư mà gầy mòn đi.
[40] Ý nói suốt tháng tâm thần như gửi ở cung trăng.
[41] Giá cao, trên mặt chiếc gương lớn và hộp đựng đồ trang sức của phụ nữ. Trong văn cổ, thường mượn chữ đài gương để chỉ người phụ nữ.
[42] Ý nói thân phận hèn mọn như cánh bèo trôi nổi mặt nước. ở đây là lời Kim Trọng tự nói khiêm.
[43] Ý nói trong sạch, thanh bạch. Chất hằng: Một thể chất lúc nào cũng như thế.
[44] Hai thứ rau, người ta dùng lá và củ nấu canh hoặc muối dưa làm món ăn hàng ngày. Ý cả câu: Gia đình vốn thanh bạch, mà tư chất thì cũng bình thường, không có tài sắc gì, lời Kiều tự khiêm (Bốn chữ trên nói gia đình, bốn chữ dưới nói bản thân).
[46] Do chữ xích thằng (sợi dây đỏ) theo sách Tục U quái lục: Vì Cố, người đời Đường, đi cầu hôn, vào nghỉ quán trọn, gặp một ông già ngồi dưới bóng trăng, mở cái túi vải, đang kiểm sổ sách. Vi Cố hỏi, ông già trả lời: Đây là sổ sách hôn nhân, và chiếc túi vải này dùng đựng những dây đỏ (xích thằng) dùng để buộc chân đôi vợ chồng. Do điển này mà có những danh từ: “chỉ hồng”, “tơ hồng” để chỉ việc nhân duyên vợ chồng, và “Nguyệt lão” (ông già dưới trăng), “Trăng già”, “ông Tơ”, để chỉ người làm mối mai. Tục xưa: khi cưới vợ, thường làm lễ Tơ hồng, tức là tế ông Nguyệt lão xe dây đỏ đó.
[47] Dù chẳng, nếu không.
[48] Khuôn tạo hoá, chỉ trời. Khuôn do chữ quân, tức là cái khuôn dùng để nặn đồ gốm. Người xưa ví tạo hoá đúc nặn ra muôn vật như cái khuôn nặn ra các đồ gốm, nên gọi Tạo hoá là Hồng quân, Thiên quân, (khuôn trời).
[49] Tấc lòng chân thành, thành thực.
[50] Nguyên nghĩa là tấm lòng tốt đẹp như mùa xuân. Còn có thể giải là tấm lòng của người phụ nữ trẻ tuổi, xinh đẹp.
[51] Như nói tứ xuân (Xuân tứ).
[52] Nét thu ba, nét sóng thu, tức con mắt.
[53] Do chữ kim thạch. Kim đây là loài đồng, chỉ chuông đồng, vạc đồng; thạch là đá, chỉ bia đá. Thời xưa, những việc lớn, những công đức hay châm ngôn, thường được người ta khắc vào chuông đồng, bia đá, để lưu truyền thiên cổ. Do đó, người ta thường dùng danh từ kim thạch để chỉ cái gì có tính cách vĩnh cửu bền vững, không thay đổi được, như ghi tạc vào vàng đá. Đây nói: Kiều nhận lời gắn bó với Kim Trọng, và xin ghi tạc lời đó, như ghi tạc vào vàng đá.
[54] Chiếc quạt bằng lá quì vẽ hoa.
[55] Sơn và keo, chỉ tình nghĩa gắn bó bền chặt với nhau như hai chất keo và sơn.
[56] Lầu trang điểm, chỉ dùng lầu ở của phụ nữ.
[57] Muốn xem vàng bao nhiêu tuổi, xấu tốt thế nào, người ta thường dùng thứ đá cuội đen để thử, gọi là hòn đá thử vàng. Qua sự trao đổi, Kim-Kiều đã hiểu biết và yêu nhau, như đá biết rõ tuổi vàng.
[58] Hai câu này lấy ý ở bài thơ trong “Tình sử”: “Quân tại Tương giang đầu, Thiếp tại Tương giang vĩ, Tương tư bất tương kiến, Đồng ẩm Tương giang thuỷ” (Chàng ở đầu sông Tương, Thiếp ở cuối sông Tương, Nhớ nhau mà chẳng thấy nhau, Cùng uống nước sông Tương).
[59] Ý nói bức tường của nhà Kiều với nhà Kim Trọng như có tuyết sương ngăn trở, che khuất khiến cho hai người gặp gỡ trao đổi tin tức.
[60] Thưa hồng, rậm lục: màu đỏ ít đi, màu xanh rậm thêm, tức là mùa xuân sắp qua, mùa hạ sắp tới.
[61] Do chữ song đường (xuân đường và huyền đường) chỉ cha mẹ.
[62] Do chữ lan thất.
[63] Những thức ăn quý đương mùa. Thuý Kiều mang sang để tiếp Kim Trọng. Chú ý, “sẵn bày” ở đây không phải là bày biện ra bàn ở nhà Kiều.
[64] Hai chữ này thường dùng để chỉ tình duyên vợ chồng.
[65] Hoa cây râm, sắc trắng, ví mái tóc lốm đốm bạc trông như những chẫm hoa râm.
[66] Hiểu biết tiếng đàn. Đời Xuân Thu, Bá Nha, một người giỏi đàn, Chung Tử Kỳ, một người giỏi nghe đàn, đều nổi tiếng, cùng làm bạn với nhau. Tử Kỳ hiểu được tâm hồn bạn trong tiếng đàn, khi Bá Nha gẩy đàn, như núi Thái - Sơn”, khi Bá Nha nghĩ đến dòng chảy (lưu thuỷ), thì Tử Kỳ khen: “Tiếng đàn cuồn cuộn như sông Giang, sông Hà”. Sau Tử Kỳ chết, Bá Nha đứt dây, đập đàn ra, và than rằng: “Trong thiên hạ không còn ai là tri âm (người hiểu biết tiếng đàn của mình) nữa”. Về sau, tri âm dùng để chỉ bạn thân, tri kỷ, hoặc bạn tình.
[67] Chữ Hán là giả sơn, tức là núi non bộ.
[68] Tức động Đào Nguyên.
[69] Tên một núi ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, Tương truyền đời Hán, Lưu Thần và Nguyễn Triệu lên núi Thiên Thai hái thuốc gặp tiên nữ rồi cùng nhau kết duyên ở đấy.
[70] Lời chào hỏi chúc mừng khi gặp nhau. Hàn thuyên: lạnh ấm, lời hỏi thăm sức khoẻ.
[71] Lời thơ trăng gió vui chơi. Non sông: Lấy núi sông mà nguyền ước (sông cạn, núi mòn, lời thề cũng không thay đổi).
[72] Bàn sách.
[73] Cái giá để gác bút.
[74] Cái ống đựng thơ.
[75] Màu xanh nhạt, chỉ màu bức tranh cây thông của Kim Trọng.
[76] Gió và sương. Bức tranh cây thông vẽ rất tự nhiên như có đượm cả phong sương.
[77] Đề lợi vịnh bức tranh.
[78] Thêm vẻ đẹp. ý nói bức tranh mới vẽ xong, xin đề mấy vần thơ cho tăng thêm vẻ đẹp.
[79] Bàn tay người đẹp, người tiên.
[80] Tài xuất khẩu thành thơ hay, như nhả ra ngọc, phun ra châu.
[81] Nàng Ban Chiêu, đời Đông Hán. Nàng học rộng tài cao, được vua Hán vời đến giúp soạn sách.
[82] Nàng Tạ Đạo Uẩn, đời Tấn, là người thông minh, có học thức.
[83] Đồ đeo bằng ngọc. Chữ dùng chỉ chung người ta đã hiển đạt và có quan chức.
[84] Tức Kim Mã Môn nói tắt, tên cửa cung Vị ương của vua nhà Hán (cửa cung có để tượng ngựa đồng nên gọi là Kim mã). Đời Hán Vũ Đế, thường cho những người có văn tài đến đợi ở đây, để chờ nhà vua hỏi han về chính sự. Kiều muốn nói Kim Trọng không là nhà quan cũng là người học cao.
[85] Cũng như khuôn thiêng, sự sắp đặt của trời.
[86] Thày xem tướng.
[87] Những cái tinh hoa tốt đẹp.
[88] Cuộc gặp gỡ tình cờ.
[89] Ý nói: Người ta cũng có thể làm thay đổi được cả số trời.
[90] Giải là cởi, kết là mối buộc. Ý nói, chúng ta đã ràng buộc với nhau, nếu có sự chia rẽ thì quyết liều thân để giữ lời vàng đá.
[91] Những sự uỷ khúc ở trong lòng, như nói tâm tình, tâm sự.
[92] Say say, ngà ngà.
[93] Ý nói ngày ngắn lắm.
[94] Cửa sổ có che vải sa, cũng như song the, chỉ phòng ở của Kiều.
[95] Cha mẹ, do chữ song thân, tức thân phụ (cha) và thân mẫu (mẹ).
[96] Mau và thưa, chỉ ánh trăng. ánh trăng giọi bóng cành lá cây xuống làm cho mặt đất chỗ sáng, chỗ tối.
[97] Trường là cái màn, huỳnh là con đom đóm. Đời Tấn, Xa Dận ham học, nhà nghèo, đêm khôn có đèn, phải bắt con đom đóm đựng vào túi lụa thưa để mà đọc sách. Chỉ phòng học của Kim Trọng.
[98] Bước chân của người đẹp.
[99] Theo sách Nam kha ký, Thuần Vu Phần đời Đường ngày sinh nhật uống rượu say nằm ngủ dưới gốc cay hoè già ở phía nam nhà ông, liền mộng thấy đến một nước gọi là “Đại Hoè An”, được vua nước ấy gả công chúa, và cho làm quan Thái thú quận Nam Kha, vinh hiển hơn hai mươi năm. Khi tỉnh dậy, chỉ thấy dưới gốc hoè một tổ kiến lớn, trong có con kiến chúa, mới hiểu đó là nước và vua Hoè An (gốc hoè yên ổn), còn Nam kha tức là cành hoè phía nam nhằm thẳng xuống tổ kiến. Do đó, người ta nói “giấc Nam kha” hay “giấc hoè” để chỉ cuộc phú quý hư ảo.
[100] Đây nói, Kim Trọng sực tỉnh thấy ánh trăng đưa bóng hoa lê tới gần.
[101] Đỉnh núi Vu Giáp (hay Vu Sơn). Vua Sở Hoài Vương đi chơi quán Cao Đường, mộng thấy một người đàn bà đẹp, và tự xưng là thần núi Vu Sơn, sớm làm mây, chiều làm mưa. Do tích này, người ta thường dùng chữ “mây mưa” để chỉ việc ân ái giữa trai gái.
[102] núi Thần nữ chỗ ở của nàng tiên gặp vua Sở nói trên.
[103] Cái để thắp nên làm hình hoa sen.
[104] Chỗ cửa sổ có trồng cây đào.
[105] Giấy hoa tiên (giấy viết thư từ có vẽ hoa ghi chép lời thề).
[106] Đồng tâm, cùng một lòng với nhau. Người xưa, thường tặng nhau dây lưng gấm, kết thành vòng hồi văn, ngụ ý thân yêu quấn quýt, gọi là cái “đồng tâm kết”.
[107] Ráng mặt trời. Chén hà do chữ hà bôi thứ chén bằng ngọc màu ráng đỏ, đây dùng nói chén quý.
[108] Nước ngọt, ví thứ rượu ngon quý.
[109] Ý nói Kiều với Kim Trọng, ngồi kề nhau, mùi hương quần áo như là hoà lộn với nhau, mà trong binh gương, bóng hai người cũng như lồng đôi với nhau.
[110, 111] Chày sương, cầu Lam: ở vùng đất thuộc Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc). Bùi Hàng, đời Đường, khi thi hỏng về, gặp Vân Kiều tặng bài thơ, có câu: “Lam Kiều tiện thị thần tiên quật, Hà tất kỳ khu thướng ngọc kinh” (Cầu Lam là cái tổ tiên đó, Hà tất phải vất vả lên đế đô để thi cử làm gì). Về sau, Hàng đi qua một nơi, gọi là Lam Kiều, khát nước, vào xin nước một nhà bà lão gần đấy thấy Vân Anh, (em Vân Kiều), cháu gái bà, người tuyệt đẹp, Hàng ngỏ ý cầu hôn, bà lão bảo: Bà cân dùng cối ngọc và chày ngọc để giã thuốc huyền sương (thứ thuốc tiên), nếu có những thứ ấy làm sính lễ sẽ gả con cho. Hàng về tìm được cối và chày ngọc đưa đến, lại ở đấy giã thuốc cho bà lão một trăm ngày, rồi lấy Vân Anh và sau hai vợ chồng cùng lên cõi tiên. ở đây, Lam Kiều chỉ chỗ nhà ở của Kiều.
[112] Lả lơi không đứng đắn.
[113] Vu Hựu, đời Đường, một hôm đi chơi, bắt được chiếc lá đỏ trôi trên ngòi nước từ cung vua chảy ra. Trên lá có đề một bài thơ, Vu Hựu bèn để lại hai câu thơ vào chiếc lá đỏ khác, rồi đem thả nơi đầu ngòi nước, cho trôi vào cung vua. Hàn thị, người cung nữ thả lá đỏ khi trước, lại bắt được lá đỏ của Vu Hựu. Về sau, nhờ dịp vua phóng thích cung nữ, Vu Hựu lấy được Hàn thì.
[114] Theo sách Tục U quái lục: Vì Cố, người đời Đường, đi cầu hôn, vào nghỉ quán trọn, gặp một ông già ngồi dưới bóng trăng, mở cái túi vải, đang kiểm sổ sách. Vi Cố hỏi, ông già trả lời: Đây là sổ sách hôn nhân, và chiếc túi vải này dùng đựng những dây đỏ (xích thằng) dùng để buộc chân đôi vợ chồng. Do điển này mà có những danh từ: “chỉ hồng”, “tơ hồng” để chỉ việc nhân duyên vợ chồng, và “Nguyệt lão” (ông già dưới trăng), “Trăng già”, “ông Tơ”, để chỉ người làm mối mai. Tục xưa: khi cưới vợ, thường làm lễ Tơ hồng, tức là tế ông Nguyệt lão xe dây đỏ đó.
[115] Biết lòng nhau, thông cảm nhau.
[116] Chuyện trai gái bất chính..
[117] Cái đài ngồi gẩy đàn của Tư Mã Tương Như, một nhà giỏi đàn đời Tây Hán..
[118] Do chữ lưu thuỷ, cao sơn (nước chảy, non cao), những tiếng đàn của Bá Nha mà Chung Tử Kỳ nghe và phân biệt được. Đây Kim Trọng đề cao Kiều lên ngang tài với Bá Nha, và tự cho mình là Chung Kỳ..
[119] Nghề mọn, lời nói nhún.
[120] Tức nguyệt cầm, ta gọi là đàn nguyệt.
[121] Thái độ tỏ ý trân trọng.
[122] Khó nghĩ.
[] Tiếng cổ, có nghĩa là “lắm thay”.
[123] Vũ là dây đàn to, văn là dây đàn nhỏ.
[124] Hai âm đứng đầu ngũ âm trong cung bậc nhạc cổ của Trung Quốc: Cung, thương giốc, truỷ, vũ.
[125] Bãi chiến trường giữa đời Hán, và nước Sở. Cuối đời Tần, Lưu Bang (Hán Cao tổ) và Hạng Vũ (Sở Bá vương) đánh nhau nhiều trận kịch liệt.
[126] Tiếng khí giới bằng sắt, bằng kim loại va chạm xô xát nhau.
[127] Tư mã Tương Như người đời Hán, có văn tài, ở đất Lâm Cùng, Trác Vương Tôn, có con gái là Văn Quân, người đẹp mà mới goá chồng. Tương Như gẩy khúc đàn “Phượng cầu hoàng” để tỏ tình với Văn Quân cảm tiếng đàn, đêm ấy, bỏ nhà trốn theo Tương Như.
[128, 129] Kê Khang, Quảng Lăng: Kê Khang, đời Tam quốc, đêm gẩy đàn cầm ở đình Hoa Dương, bỗng có người khách lạ tới dạy cho khúc “Quảng Lăng tán”, âm điệu tuyệt hay.
[130, 131] Lưu thuỷ, hành vân: nước chảy, mây bay. Ý nói khúc đàn thanh thoát lưu loát.
[132] Đi qua cửa ải.
[133] Tên chữ của Vương Tường, một cung nữ đời Hán Nguyên đế, bị gả cho chúa Hung nô, khi qua cửa ải, vào đất Hung nô, Chiêu Quân thường gảy khúc đàn tỳ bà để tỏ nỗi lòng nhớ nhà, nhớ nước.
[134] Tiếng đàn nghe đục như tiếng ầm ì của dòng suối dội ở lưng chừng núi xuống.
[135] Chỉ các khúc ruột chứ không nhất thiết phải đúng chín khúc ruột.
[136] Chính nghĩa là tiêu điều, thê hương, đây dùng chỉ tiếng đàn buồn rầu, sầu não.
[137] Ủ dột.
[138] Xao xuyến, đau xót.
[139] Lời khuyên quí giá.
[140] Hoá có hương thơm.
[141] Vẻ hồng. Càng đàn, càng thơ, nàng Kiều càng đẹp, tình ý đôi bên càng nồng nàn.
[142] Xem vấn đề là thường, không quan trọng.
[143] Cây đào non, lấy chữ ở thơ “Đào yêu”, Kinh thi: Đào chi yêu yêu (cây đào non mơn mởn) ví với người con gái trẻ mà đẹp, đã đến tuổi đi lấy chồng.
[144] Bố là vải, kinh là cây kinh, một loại cây mọc thành cụm, hoa màu tía nhạt, cành và thân cứng rắn, thời xưa, những phụ nữ nghèo thường dùng cành nó làm trâm cài tóc. Ở đây, ý Kiều nói: Đã cho vào hang người vợ chính thức như hạng bố kính thời xưa (không phải là nhân tình, nhân ngãi).
[145] Theo chồng, chí cái đạo làm vợ, theo quan niệm Nho giáo xưa.
[146] Trong bãi dâu, trên sông Bộc. Xưa ở nước Vệ, đời Xuân Thu, có tục trai gái hẹn hò, tụ hội nhau ở bãi dâu trên sông Bộc để hát hổng, đùa bỡn, làm việc dâm đãng.
[148] Theo Tây sương ký: Thôi Oanh và Trương Cung, tên tự là Quân Thuỵ, đời Đường, là đôi trai tài, gái sắc, đẹp đôi, vừa lứa, đã gặp gỡ và yêu nhau ở chái tây chùa Phổ Cứu, đất Bổ Đông, nhưng vì đã đi lại ăn nằm với nhau, nên về sau chán nhau mà bỏ nhau.
[149] Đây chỉ tình vợ chồng chung thuỷ, đoan chính.
[150] Đây ví với cặp trai gái.
[151] Nói khi ăn nằm ân ái với nhau. Theo bài Trường hận ca của Bạch Cư Dị, vua Đường Huyền tông và Đường quý phi nguyện với nhau trong đêm “thất tịch”: Tại thiên nguyện tác ti dực diểu, tại địa nguyên vi liên lí chí (trên trời nguyện làm đôi chim liền cánh, dưới đất nguyện là hai cây liền cành).
[152] Do chữ tây sương, tức chái tây chùa Phổ Cứu, nơi Thôi, Trương gặp gỡ nhau.
[153] Nén hương để thề nguyền.
[154] Các sách thường dẫn điển sau đây: Tạ Côn đời Tấn, ghẹo người con gái đang ngồi dệt cửi, bị cô ta cần cái thoi ném vào mặt, gẫy mất hai cái răng (theo Tấn thư).
[155] Nể, tiếng cổ, cũng có nghĩa là yêu (yêu vì nặng lòng xót liễu vì hoa).
[156] Bóng mái nhà (tàu: miếng gỗ dài đặt dọc ở mái hiên, để đỡ lấy mái nhà, gần chỗ giọt tranh).
[157] Vẻ sáng như bạc, chỉ ánh trăng.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Du » Hồi 04