27/04/2024 05:06Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Thiên mã lại
天馬徠

Tác giả: Khuyết danh Trung Quốc

Thể thơ: Cổ phong (cổ thể); Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Hán
Đăng bởi Vanachi vào 15/12/2008 07:08

 

Nguyên tác

天馬徠,
從西極,
涉流沙,
九夷服。

天馬徠,
出泉水。
虎脊兩,
化若鬼。

天馬徠,
歷無草。
逕千里,
循東道。

天馬徠,
執徐時。
將搖舉,
誰與期?

天馬徠,
開遠門。
竦予身,
逝崑崙。

天馬徠,
龍之媒。
遊閶闔,
觀玉臺。

Phiên âm

Thiên mã lại[1],
Tòng tây cực[2].
Thiệp lưu sa[3],
Cửu di phục.

Thiên mã lại,
Xuất tuyền thuỷ[4].
Hổ tích lưỡng[5],
Hoá[6] nhược[7] quỷ[8].

Thiên mã lại,
Lịch vô thảo[9].
Kính thiên lý,
Tuần[10] đông đạo.

Thiên mã lại,
Chấp từ[11] thì.
Tương dao cử[12],
Thuỳ dữ kỳ?

Thiên mã lại,
Khai viễn môn[13].
Tủng[14] dư thân,
Thệ Côn Lôn.

Thiên mã lại,
Long chi môi[15].
Du Xương Hạp[16],
Quan Ngọc Đài[17].

Bản dịch của Điệp luyến hoa

Ngựa trời tới,
Từ cực tây.
Qua sa mạc,
Chín họ về.

Ngựa trời tới,
Từ suối trong.
Vằn lưng hổ,
Rỡ sắc lông.

Ngựa trời tới,
Qua đất không.
Bay ngàn dặm,
Theo đường đông.

Ngựa trời tới,
Năm Thái Sơ.
Bay xa tắp,
Nào ai so?

Ngựa trời tới,
Mở núi sông.
Vút thân nhẹ,
Vượt Côn Lôn.

Ngựa trời tới,
Rồng một loài.
Chơi Xương Hạp,
Thăm Ngọc Đài.
Bài ca này được thấy trong Hán thư phần Lễ nhạc chí, Nhạc phủ thi tập xếp vào Giao miếu ca từ. Thiên mã có hai bài, đây là bài thứ hai.

Về hoàn cảnh sáng tác bài thơ này, có những ghi chép khác nhau. Hán thư phần Vũ Đế kỷ chép mùa thu năm Nguyên Đỉnh thứ tư (113 tr.CN), ngựa sinh tại suối Ác Oa, làm bài Thiên mã. Lại chép mùa xuân năm Thái Sơ thứ tư (101 tr.CN), tướng quân Lý Quảng 李廣 chém đầu Đại Uyển vương (Đại Uyển 大宛 là một dân tộc ở Tây Vực đời Hán), bắt được một con hãn huyết mã, làm bài Tây cực thiên mã chi ca 西極天馬之歌. Tây Vực truyện 西域傳 nói hãn huyết mã là con của ngựa trời. Hãn huyết mã tức ngựa có mồ hôi từ vai chảy ra có màu đỏ như máu. Sử ký phần Nhạc thư lại viết Hán Vũ Đế đánh Đại Uyển, được một con thiên lý mã, tên là Bồ Tiêu 蒲梢, làm bài ca viết: “Thiên mã lai hề tòng tây cực, Kinh vạn lý hề quy hữu đức. Thừa linh uy hề giáng ngoại quốc, Thiệp lưu sa hề tứ di phục” 天馬來兮從西極,經萬里兮歸有德。承靈威兮降外國,涉流沙兮四夷服, có thể là chỉ bài ca này. Lại có thuyết nói nước Ô Tôn ở Tây Vực đem 10 con tuấn mã đến kinh đô Trường An triều kiến Hán Vũ Đế. Hán Vũ Đế rất mê ngựa, cao hứng đổi tên ngựa Ô Tôn thành thiên mã.

[1] Như lai 來, tới, đến.
[2] Tức Tây Vực.
[3] Tức sa mạc, cát thường bị gió thổi trôi như nước nên gọi là lưu sa.
[4] Chỉ suối Ác Oa 渥窪, nay thuộc An Tây, tỉnh Cam Túc, trong truyền thuyết là nơi sinh ra ngựa thần.
[5] Ý nói lông hai bên sống lưng như vằn hổ.
[6] Biến hoá.
[7] Như.
[8] Do chữ 騩, một giống ngựa màu đen nhạt.
[9] Chỉ vùng đất mặn, cây cỏ không sống được.
[10] Men theo, ven theo.
[11] Chỉ sao Thái Tàng 太歲 (còn gọi là sao Thái Âm 太陰) ở vào ngày Thìn, khi đó là năm Thái Sơ thứ tư (101 tr.CN) đời Hán Vũ Đế.
[12] Do chữ 遙舉, vút bay xa. Có thuyết giải thích dao do chữ phù dao 扶搖, thường dùng để chỉ rồng cuốn gió.
[13] Tức quan sơn môn 關山門.
[14] Do chữ 聳, nhún thân.
[15] Cùng loài với rồng.
[16] Cửa trời.
[17] Nơi Ngọc Hoàng ở.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Khuyết danh Trung Quốc » Thiên mã lại