24/04/2024 07:45Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Vãn thượng tướng quốc công Hưng Đạo đại vương
輓上將國公興道大王

Tác giả: Phạm Ngũ Lão - 范五老

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Trần
Đăng bởi Vanachi vào 01/08/2008 23:21

 

Nguyên tác

長樂鐘聲遞一槌,
秋風蕭颯不勝悲。
九重明鑑今亡矣,
萬里長城孰壞之。
雨暗長江空淚血,
雲低複道鎖愁眉。
仰觀奎藻詞非溢,
魚水情深見詠詩。

Phiên âm

Trường Lạc[1] chung thanh đệ nhất chuỳ,
Thu phong tiêu táp bất thăng bi.
Cửu trùng[2] minh giám kim vong hĩ,
Vạn lý trường thành thục hoại chi.
Vũ ám trường giang không lệ huyết,
Vân đê phức đạo[3] toả sầu my.
Ngưỡng quan Khuê tảo từ phi dật,
Ngư thuỷ tình thâm kiến vịnh thi.[4]

Dịch nghĩa

Tiếng chuông cung Trường Lạc một hồi vang lên,
Gió thu hiu hắt, đau thương khôn xiết.
Tấm gương sáng của cửu trùng nay đã mất rồi,
Bức trường thành vạn dặm ai làm cho sụp đổ?
Mưa phủ kín sông dài, luống tuôn lệ máu,
Mây sa xuống đường sạn đạo nhíu hàng mi sầu.
Ngước xem văn chương lời lời cô đúc,
Tình sâu cá nước đã hiện ra ở lời thơ vịnh.

Bản dịch của Đỗ Văn Hỷ

Tiếng chuông Trường Lạc một hồi buông,
Hiu hắt hơi thu xiết nỗi buồn.
Muôn dặm thành dài ai nỡ phá?
Chín trùng gương sáng phút mờ luôn.
Mây trùm phức đạo mi sầu nhíu,
Mưa ngập trường giang lệ máu tuôn.
Khuê tảo ngửa trông lời mực thước,
Tình sâu cá nước tứ thơ còn.
Có sách chép bài thơ này là của Bùi Tông Hoan.

[1] Tên một cung điện dời Hán, tác giả dùng để chỉ một cung điện đời Trần.
[2] Chỉ nhà vua.
[3] Tạm dịch là sạn đạo, nguyên là lối đi ở trên cao thông từ vùng này qua vùng khác ở những nơi núi non hiểm trở. Điển cố này muốn nhắc đến công lao của Hàn Tín khi giúp Hán Cao Tổ đánh Ba Thục. Tác giả có ý ví Hàn Tín với Trần Quốc Tuấn.
[4] Hai câu cuối có lẽ tác giả ca tụng bài Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo. Khuê tảo tức sao Khuê trên trời và rau rong ở dưới nước. Hai thứ này được người xưa dùng để chỉ văn chương.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Phạm Ngũ Lão » Vãn thượng tướng quốc công Hưng Đạo đại vương