05/10/2024 07:10Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 30/03/2015 22:35
Nguyên tác
蒼生未蘇息,
胡馬半乾坤。
議在雲臺上,
誰扶黃屋尊。
建都分魏闕,
下韶辟荊門。
恐失東人望,
其如西極存。
時危當雪恥,
計大豈輕論。
雖倚三階正,
終愁萬國翻。
牽裾恨不死,
漏網荷殊恩。
永負漢庭哭,
遙憐湘水魂。
窮冬客劍外,
隨事有田園。
風斷青蒲節,
霜埋翠竹根。
衣冠空穰穰,
關輔久昏昏。
願枉長安日,
光輝照北原。
Phiên âm
Thương sinh vị tô tức,
Hồ mã bán càn khôn.
Nghị tại vân đài thượng,
Thuỳ phù hoàng ốc tôn.
Kiến đô phân nguỵ khuyết,
Hạ thiều tịch Kinh Môn.
Khủng thất đông nhân vọng,
Kỳ như tây cực tồn.
Thì nguy đương tuyết sỉ,
Kế đại khởi khinh luân.
Tuy ỷ tam giai[1] chính,
Chung sầu vạn quốc phiên.
Khiên cứ[2] hận bất tử,
Lậu võng hạ thù ân[3].
Vĩnh phụ Hán đình khốc,
Dao liên Tương thuỷ hồn.
Cùng đông khách Kiếm Ngoại,
Tuỳ sự hữu điền viên.
Phong đoạn thanh bồ tiết,
Sương mai thuý trúc căn.
Y quan không nhưỡng nhưỡng,
Quan phụ cửu hôn hôn.
Nguyện uổng Trường An nhật,
Quang huy chiếu bắc nguyên.Dịch nghĩa
Dân đen chưa được yên nghỉ,
Ngựa Hồ còn chiếm nửa đất trời.
Nghĩa ở nơi đài mây,
Ai là người tôn trọng giúp đỡ nhà vàng.
Lập đô là chia quyền của triều đình,
Tiếng nhạc thiều của vua bị bỏ nơi Kinh Môn.
Sợ người phương đông trông không thấy,
Cho thấy rõ là miền cực tây hãy còn.
Lúc nguy nan như thế đáng lý ra là lo rửa nhục,
Kế lớn há lại coi thường lời bàn.
Tuy dựa vào cái chính nghĩa của tam giai,
Mà cuối cùng đổi thành sầu hận khắp nước.
Việc nắm vạt áo hận không thể hết được,
Thoát lưới mà được hưởng ơn đặc biệt,
Ông đã khóc trước cung đình.
Xa nhớ thương tới hồn sông Tương,
Mùa đông khốn khó làm thân khách nơi vùng Kiếm Ngoại,
Theo việc mà có ruộng vườn.
Gió cắt đứt những mấu của cỏ bồ xanh,
Sương chôn vùi rễ trúc biếc.
Mũ áo cứ lùng thùng,
Vùng kinh đô cứ mờ mờ.
Xin nguyện đem trời nơi Trường An,
Lấy vẻ sáng mà soi vùng đồng bằng phương bắc.Bản dịch của Phạm Doanh
Dân đen chưa yên ổn,
Nửa nước ngựa Hồ tung.
Đài mây nghĩa tỏ rõ,
Nhà vàng ai đỡ nâng.
Dựng đô chia cửa khuyết,
Kiếm Môn dứt nhạc vang
Phía đông sợ không thấy,
Miền tây còn rõ trông
Lúc loạn lo rửa nhục,
Kế lớn há coi thường.
Tuy theo ba bậc chính,
Mà thành khắp nước thương.
Nắm áo tức tới chết,
Thoát lưới nhờ ơn riêng.
Uổng khóc nơi cung Hán,
Xa thương hồn sông Tương.
Đông rét náu Kiếm Ngoại,
Theo việc sẵn ruộng nương.
Nhánh bồ xanh, giật gió,
Rễ trúc biếc, phủ sương.
Mũ áo cứ lõng nhõng,
Kinh đô mãi nhiễu nhương.
Trời Trường An xin lấy,
Soi miền bắc sáng trưng.
(Năm 761)
Theo lời chú giải của Tiền Khiêm Ích 錢謙益 (1582-1664), bài thơ này nhân việc xây Nam đô (Thành Đô) mà khiến liên tưởng tới việc chia cắt trấn. Đoạn đầu, nói đến việc Phòng Quản 房琯 chia vùng trấn đóng để theo cái nghĩa ngăn giặc. Túc Tông lấy điều này mà không ưa Quản, bèn biếm ông ta. Sau đó thêm Lữ Nhân 呂諲 xin chuyển Nam đô về Kinh Châu. Đỗ Phủ nghe chiếu lập đô, bèn tiếc cho Phòng Quản. Từ đoạn “Khiên cư...” trở xuống, Đỗ Phủ tự thuật việc bỏ quan. Vì Đỗ Phủ bỏ quan là để cứu Quản, mà Quản bị tội chỉ vì chia trấn, vì thế có liên quan. Tháng bảy năm này, Đường Minh Hoàng chạy về phía tây. Tháng chín lập ra Nam đô, bỏ Nam kinh thành Thục quận, Kinh Châu là Thục đô. Một lập, một bỏ. Đỗ Phủ rất đau lòng mà không dám nói ra lời.
[1] Chỉ vua. Phía trước phòng vua nghỉ, có xây tầng cấp ba bậc thang để bước vào.
[2] Chỉ sự can gián vua không thành. Tân Tị can Nguỵ Văn Đế, Văn Đế không nghe, đứng lên đi vào trong nhà, Tân Tị nắm lấy áo vua giữ lại.
[3] Vì can gian vụ Phòng Quản, Đỗ Phủ đã được Túc Tông tha chết, nhưng giao cho Tam pháp ti luận tội.