19/04/2024 11:46Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Liệt nữ Lý Tam hành
烈女李三行

Tác giả: Hồ Thiên Du - 胡天遊

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Nguyên
Đăng bởi tôn tiền tử vào 24/04/2019 22:52

 

Nguyên tác

大海何漫漫,
千年不能移。
泰山自言高,
精衛銜石飛。
朝見精衛飛,
暮見精衛飛。
吐血填作塸,
一旦成路蹊。
豈惟成路蹊,
崔嵬復崔嵬。
女面潔如玉,
女身濯如脂。
十四頗有餘,
十五十六時。
婀娜環春風,
明月初徘徊。
門中姊與姑,
鄰舍雜姥嫠。
人笑女無聲,
人歡女長啼。
夕夕通夕夕,
皴痛不得治。
有似食火鯁,
禍喉連脅臍。
阿母喚不應,
步出中間閨。
女身亦非狂,
女心亦非癡。
向母問阿爺,
阿爺誰所屍?
昨日門前望,
裂眼寧忍窺!
爺仇意妍妍,
走馬東西街。
我無白楊刃,
鍛作雙虹霓。
磨我削葵刀,
三寸久在懷。
一心愿與仇,
血肉相齏臡。
仇人何陸梁,
挾隊健如犛。
前者為飢狼,
後者為怒豺。
小雀抵黃鷂,
徒恐哺作糜。
大聲呼縣官,
縣官正聾蚩。
宛轉太守府,
再三中丞司。
堂皇信威嚴,
隸卒森柴崖。
安知坐中間,
一一梗與泥。
何由腐地骨,
骨笑回牙欸。
孤小不識事,
聞人說京師。
京師多貴官,
列坐省與臺。
頭上鐵柱冠,
獬豸當胸棲。
獬豸角岳岳,
多望能矜哀。
局我頭上髮,
縫我當躬衣。
手中何所將,
血帛斑斕絲。
帛上何所書,
繁霜慘濛埋。
細軀誠艱難,
要當自防支。
女弱母所憐,
請母毋攀持。
今便辭母去,
出門去如遺。
是月仲冬節,
殺氣爭驕排。
層冰塞黃河,
急霰穿毛錐。
大風箕天翻,
行人色成灰。
夜黑不見掌,
深林抱枯枝。
三更叫鴚鵝,
四更嗥狐狸。
五更道上行,
躑躅增羸飢。
舉頭望長安,
盤盤鳳凰陴。
下著十二門,
通洞縱橫開。
持我帛上書,
鬻我囊中袿。
跪伏御史府,
廷尉三重墀。
尚書幾峨峨,
峩峩唱騶歸。
頭上鐵柱冠,
獬豸當胸棲。
獬豸即無角,
豈與群羊齊!
李女倚柱嘯,
白日凋精輝。
結怨彌中霄,
中霄盛辛悲。
有地可摶摶,
有天可垂垂。
高城不為崩,
高陵不為陀。
為遣明府來,
明府來何遲。
長跪向明府,
淚落江東馳。
『女今千里還,
女憂終身罹。
女誠不敢紿,
愿官無見疑。
父冤信沈沈,
沈沈痛無期。
一日但能爾,
井底生朝曦。
死父地下笑,
生仇世中刲。
顧此弱賤軀,
甘從釜羹炊。』
語中難成聲,
聲如繫庖麋。
明府大嗟嘆,
嗟嘆仍歔欷。
『翻翻洞庭波,
洞庭非淵洄。
嶄嶄邛崍阪,
九折無險巇。
我今為汝屍,
汝去行得知。』
爺仇意妍妍,
舉家忽驚摧。
勢似宿疹發,
驟劇無由醫。
同時惡少年,
驅至如連雞。
鋃鐺押領頭,
畢命填牢狴。
有馬空馬鞍,
永別街西馗。
叩首謝明府,
搦骨難相貽。
昔為羝乳兒,
今為箭還靫。
遙遙望我裏,
我屋荒菎萊。
寡母倚門唏,
唏子杞梁妻。
女去母啖柏,
啖柏今成飴。
雖則今成飴,
母悲轉難裁。
女顏昔如玉,
女髮何祁祁。
女口含朱丹,
女手垂春荑。
哭泣親塵沙,
面目餘瘢劙。
宛宛閨中存,
黧疾疑疾羆。
姑姊看女來,
簪笄不及施。
鄰姥看女來,
左右相呼攜。
各各自流涕,
一尺紛漣洏。
鄰姥少別去,
媒媼從容來。
三請得見女,
殷勤致言辭。
公子縣南居,
端正無匹齊。
金銀列兩廂,
縴紈不勝披。
身當作官人,
華榮炳房幃。
頗欲得賢女,
賢女勝姜姬。
回面答媒媼,
身實寒且微。
無弟無長兄,
老母心偎依。
所愿事力作,
澀指縫裙鞵。
安得隨他人,
乖違母恩慈!
母年風中燈,
女命霜中葵。
須臾母大病,
死父相尋追。
棺槨安當中,
起墳遂成堆。
一一營事訖,
姑姊可前來。
為我喚長老,
長老升堂階。
為我召鄉鄰,
鄉鄰麋如圍。
十歲隨爺娘,
幼小惟癡孩。
十五銜沈冤,
灌鼻承醇醯。
二十行報仇,
報仇苦且危。
三年走大梁,
赵北燕南陲。
女行本無伴,
女止亦有規。
皎皎月光明,
不墮濁水湄。
斑斑錦翼兒,
耿死安能翳。
自此旋入房,
重闔雙雙扉。
朱繩八九尺,
掛向梁閑頹。
鮮鮮桂華樹,
華好葉何奇。
葳蕤揚芳馨,
生在空山隈。
烈火燒昆岡,
三日焰未衰。
大石屋言言,
小石當連車。
蕭芝泣蕙草,
萬族合一煤。
燒出白玉姿,
皎雪寒皚皚。
玉以為女墳,
將桂墳上栽。
夜有大星辰,
其光何離離。
錯落桂樹下,
千年照容徽。

Phiên âm

Đại hải hà man man,
Thiên niên bất năng di.
Thái sơn tự ngôn cao,
Tinh vệ hàm thạch phi.
Triêu kiến tinh vệ[1] phi,
Mộ kiến tinh vệ phi.
Thổ huyết điền tác âu,
Nhất đán thành lộ khê.
Khởi duy thành lộ khê,
Tồi ngôi phục tồi ngôi.
Nữ diện khiết như ngọc,
Nữ thân trạc như chi.
Thập tứ phả hữu dư,
Thập ngũ thập lục thì.
A na hoàn xuân phong,
Minh nguyệt sơ bồi hồi.
Môn trung tỷ dữ cô,
Lân xá tạp mụ ly.
Nhân tiếu nữ vô thanh,
Nhân hoan nữ trường đề.
Tịch tịch thông tịch tịch,
Suân thống bất bất năng trị.
Hữu tự thực hoả canh,
Hoạ hầu liên hiếp tề.
A mẫu hoán bất ứng,
Bộ xuất trung gian khuê.
Nữ tâm diệc phi cuồng,
Nữ tâm diệc phi si.
Hướng mẫu vấn a da,
A da thuỳ sở thi?
Tạc nhật môn tiền vọng,
Liệt nhãn ninh nhẫn khuy!
Da cừu ý nghiên nghiên,
Tẩu mã đông tây nhai.
Ngã vô bạch dương nhận,
Đoàn tác song hồng nghê[2].
Ma ngã tước quỳ đao,
Tam thốn[3] cửu tại hoài.
Nhất tâm nguyện dữ cừu,
Huyết nhục tương tê nê.
Cừu nhân hà lục lương,
Hiệp đội kiện như li.
Tiền giả vi cơ lang,
Hậu giả vi nộ sài.
Tiểu tước để hoàng diều,
Đồ khủng bộ tác mi.
Đại thanh hô huyện quan,
Huyện quan chính tủng si.
Uyển chuyển thái thú phủ,
Tái tam trung thừa[4] ty.
Đường hoàng tín uy nghiêm,
Lệ tốt sâm sài nhai[5].
An tri toạ trung gian,
Nhất nhất canh dữ nê.
Hà do hủ địa cốt,
Quỷ khiếu đầu hồi nha ai.
Cô tiểu bất thức sự,
Văn nhân thuyết kinh sư.
Kinh sư đa quý quan,
Liệt toạ tỉnh dữ đài[6].
Đầu thượng thiết trụ quan[7],
Hải trãi[8] đương hung thê.
Hải trãi giác nhạc nhạc,
Đa vọng năng căng ai.
Cục ngã đầu thượng phát,
Phùng ngã đương cung y.
Thủ trung hà sở tương,
Huyết bạch ban lan ty.
Bạch thượng hà sở thư,
Phồn sương thảm mông mai.
Tế khu thành gian nan,
Yếu đương tự phòng chi.
Nữ nhược mẫu sở lân,
Thỉnh mẫu vô phan trì.
Kim tiện từ mẫu khứ,
Xuất môn khứ như di.
Thị nguyệt trọng đông tiết,
Sát khí tranh kiêu bài.
Tằng băng tắc Hoàng Hà,
Cấp tản xuyên mao chuỳ.
Đại phong ky thiên phiên,
Hành nhân sắc thành khôi.
Dạ hắc bất kiến chưởng,
Thâm lâm bão khô chi.
Tam canh khiếu khả nga,
Tứ canh cao hồ ly.
Ngũ canh đạo thượng hành,
Trịch trục tăng luy ky.
Cử đầu vọng trường an,
Bàn bàn phượng hoàng tỳ.
Hạ trước thập nhị môn,
Thông động tung hoành khai.
Trì ngã bạch thượng thư,
Dục ngã nang trung khuê.
Quỵ phục ngự sử phủ,
Đình uý[9] tam trùng tê.
Thượng thư kỷ nga nga,
Nga nga xướng trâu quy.
Đầu thượng thiết trụ quan,
Hải trãi đương hung thê.
Hải trãi ký vô giác,
Khởi dữ quần dương tề!
Lý nữ ỷ trụ tiếu,
Bạch nhật điêu tinh huy.
Kiết oán di trung tiêu,
Trung tiêu thịnh tân bi.
Hữu địa khả đoàn đoàn,
Hữu thiên khả thuỳ thuỳ.
Cao thành bất vi băng[10],
Cao lăng bất vi đà.
Vị khiển minh phủ lai,
Minh phủ lai hà trì.
Trường quỵ hướng minh phủ,
Lệ lạc giang đông trì.
“Nữ kim thiên lý hoàn,
Nữ ưu chung thân ly (la).
Nữ thành bất cảm đãi,
Nguyện quan vô kiến nghi.
Phụ oan tín trầm trầm,
Trầm trầm thống vô kỳ.
Nhất nhật đãn năng nhĩ,
Tỉnh để sinh triêu hy.
Tử phụ địa hạ tiếu,
Sinh cừu thị trung khuy.
Cố thử nhược tiện khu,
Cam tòng phẫu canh xuy.”
Ngữ trung nan thành thanh,
Thanh như hệ bào my.
Minh phủ đại ta thán,
Ta thán nhưng hư hy.
“Phiên phiên Động Đình ba,
Động Đình phi uyên hồi.
Tảm tảm Cùng Lai bản,
Cửu chiết vô hiểm nga.
Ngã kim vị nhữ thi,
Nhữ khứ hành đắc tri.”
Da cừu ý nghiên nghiên,
Cử gia hốt kinh tồi.
Thế tự túc chẩn phát,
Sậu kịch vô do y.
Đồng thời ác thiếu niên,
Khu chí như liên kê.
Ngân đang áp lĩnh đầu,
Tất mệnh điền lao bệ.
Hữu mã không mã yên,
Vĩnh biệt nhai tây quỳ.
Khấu đầu tạ minh phủ,
Nặc cốt nan tương di.
Tích vi đê nhũ nhi,
Kim vi tiễn hoàn xoa.
Dao dao vọng ngã lý,
Ngã ốc hoang tỳ lai.
Quả mẫu ỷ môn hy,
Hy tử Khởi Lương thê[11].
Nữ khứ mẫu diệm bách,
Diệm bách kim thành di.
Tuy tắc kim thành di,
Mẫu bi chuyển nan tài.
Nữ nhan tích như ngọc,
Nữ phát hà kỳ kỳ.
Nữ khẩu hàm chu đan,
Nữ thủ hàm xuân di.
Khốc khấp thân trần sa,
Diện mục dư ban ly.
Uyển uyển khuê trung tồn,
Lê tật nghi bệnh bi.
Cô tỷ khán nữ lai,
Châm can bất cập thi.
Lân mụ khán nữ lai,
Tả hữu tương hô huề.
Các các tự lưu thế,
Nhất xích phân liên nhi.
Lân mụ thiểu biệt khứ,
Môi ẩu thung dung lai.
Tam thỉnh đắc kiến nữ,
Ân cần trí ngôn từ.
Công tử huyện nam cư,
Đoan chính vô thất tề.
Kim ngân liệt lưỡng sương,
Khiên hoàn bất thăng phi.
Than đương tác quan nhân,
Hoa vinh bính phòng vi.
Phả dục tầm hiền nữ,
Hiền nữ thắng Khương Ky[12].
Hồi diện đáp môi ẩu,
Thân thực hàn thả vi.
Vô đệ vô trưởng huynh,
Lão mẫu tâm ổi y.
Sở nguyện sự lực tác,
Sáp chỉ phùng quần hài.
An đắc tuỳ tha nhân,
Quai vi mẫu ân từ!
Mẫu niên phong trung đăng,
Nữ mệnh sương trung quỳ.
Tu du mẫu đại bệnh,
Tử phụ tương tầm truy.
Quan quách an đương trung,
Khởi phần toại thành đôi.
Nhất nhất doanh sự ngật,
Cô tỷ khả tiền lai.
Vị ngã hoán trưởng lão,
Trưởng lão thăng đường giai.
Vị ngã triệu hương lân,
Hương lân my như vi.
Thập tuế tuỳ da nương,
Ấu tiểu duy si hài.
Thập ngũ hàm trầm oan,
Quán tỵ thừa thuần kê.
Nhị thập hành báo cừu,
Báo cừu khổ thả nguy.
Tam niên tẩu Đại Lương,
Triệu bắc Yên nam[13] thuỳ.
Nữ hành bản vô bạn,
Nữ chỉ diệc hữu quy.
Giảo giảo nguyệt quang minh,
Bất truỵ trọc thuỷ my.
Ban ban cẩm dực nhi,
Cảnh tử[14] an nắng ế!
Tự thử toàn nhập phòng,
Trùng hạp song song phi.
Chu thằng bát cửu xích,
Quải hướng lượng gian đồi.
Tiên tiên quế hoa thụ,
Hoa hảo diệp hà kỳ.
Uy nhung dương phương hinh,
Sinh tại không sơn ôi.
Liệt hoả thiêu côn cương,
Tam nhật diệm vị suy.
Đại thạch ốc ngôn ngôn,
Tiểu thạch đương liên xa.
Tiêu chi khấp huệ thảo[15],
Vạn lộc hợp nhất môi.
Thiêu xuất bạch ngọc tư,
Giảo tuyết hàm ngai ngai.
Ngọc dĩ vi nữ phần,
Tương quế phần thượng tài.
Dạ hữu đại tinh thần,
Kỳ quang hà ly ly.
Thác lạc quế thụ hạ,
Thiên niên chiếu dung huy.

Dịch nghĩa

Biển cả sao mênh mông
Nghìn năm không hề thay đổi
Thái Sơn tự cho là cao
Chim tinh vệ ngậm đá bay
Buổi sáng thấy chim tinh vệ bay
Buổi chiều thấy chim tinh vệ bay
Máu nôn ra lấp thành đống cát
Một sớm đã thành đường
Há đâu chỉ thành đường
Mà thành cao vời lại cao vời
Mặt cô gái trong sáng như ngọc
Làn da như thoa phấn
Năm ngoài tuổi mười bốn
Rồi đến năm mười lăm mười sáu
Đôi vòng đeo yểu điệu trước gió xuân
Trăng sáng cũng sững sờ trước cô
Chị em cô bác trong nhà
Kể cả làng xóm có nhiều bà goá
Người khác cười cô gái lặng thinh
Người khác vui cô gái khóc hoài
Chiều chiều lại chiều chiều
Vết đau không thể chữa
Tựa như ăn hóc xương
Hầu đau lan xuống hông bụng
Mẹ gọi cũng không thưa
Cô bước ra gian giữa
Người cô gái không điên
Lòng cô gái cũng không ngây
Cô hỏi mẹ về cha
Cha bị kẻ nào giết?
Hôm qua đứng trước cửa
Nhìn đến nỗi rách mắt ra
Kẻ giết cha vẻ dương dương tự đắc
Phóng ngựa trên đường từ đông sang tây
Ta không có dao găm bạch dương
Để luyện thành dao sáng loé
Ta mài dao tước quỳ
Ba tấc giấu trong lòng đã lâu
Chỉ có một tâm nguyện là máu thịt
Cùng nát ra cùng với kẻ thù
Kẻ thù sao mà hùng dũng
Thành tốp khoẻ như trâu
Thằng đi trước như sói đói
Thằng đi sau như sài dữ
Chim sẻ chống lại diều hâu
Sợ bị nó nhai nhỏ
Lớn tiếng hô quan huyện
Quan huyện như điếc như ngây
Chuyển lên quan thái thú
Chuyển đi chuyển lại sang quan tuần
Bệ vệ tin là nghiêm lắm
Lính lệ đứng trông sao dữ tợn
Biết đâu các vị ngồi đó
Cứ trơ như tượng gỗ tượng đất
Làm thế nào đây, nắm xương dưới đất
Nghiến răng để báo thù
Mồ côi nhỏ bé không biết việc
Nghe người ta nói ở kinh sư
Nơi đó có nhiều quan to
Ngồi ở nơi tỉnh và đài
Đầu đội mũ thiết trụ
Có hình thú hải trãi ở bụng
Sừng hải trãi nhọn
Rất mong được thương tình
Búi tóc gọn lên
May áo bó sát người
Trong tay cầm cái gì
Mảnh lụa in ngấn máu
Viết trên lụa cái gì
Lên trên mảnh lụa thảm lờ mờ
Tấm thân nhỏ bé vất vả
Cần phải tự giữ gìn
Mẹ thương con gái yếu đuối
Con xin mẹ đừng ngăn trở
Bây giờ con xin từ biệt mẹ để đi
Ra khỏi cửa đi thẳng
Nay là thời tiết tháng một
Trời lạnh lắm
Mặt băng cứng Hoàng Hà
Hạt tuyết như đâm vào da
Gió lớn cuốn ngang trời
Mặt người đi xạm lại
Đêm tối không trông thấy bàn tay
Ôm cành khô ở rừng sâu
Canh ba nghe nhạn kêu
Canh tư cáo mèo gào
Canh năm bước trên đường
Bước đi tăng mệt đói
Ngước mặt nhìn Trường An
Trông thấy hàng răng cửa trường thành
Đi qua mười hai cửa
Thông đến nơi đường ngang lối dọc
Tay cầm mảnh lụa lời kêu
Mặc thêm áo lấy từ trong túi
Quỳ phục trước phủ ngự sứ
Đình uý ba bậc thềm
Thượng thư cao lớn đoan trang
Đi ra có lính thét đường
Đầu đội mũ thiết trụ
Có hình hải trãi trước bụng
Hải trãi dù cho không có sừng
Há đâu ngang với bầy dê!
Lý nữ tựa vào cột kêu to
Ánh sáng mặt trời nhạt
Nỗi oan kết lại bốc tận trời
Trời rộng lòng thương
Có đất tròn tròn
Có trời xa xa
Thành cao không sạt
Gò cao không bằng
Vì việc này phái minh phủ đến
Minh phủ đến sao chậm
Quỳ phục trước minh phủ
Nước mắt rơi, nước sông cuốn về đông
“Con từ nghìn dặm đến đây
Đời con mang nỗi buồn
Con không giám nói sai
Xin quan đừng ngờ
Nỗi oan của cha nặng lắm
Oan nặng đau cùng
Một mai có thể giải được
Như đáy giếng rọi ánh ban mai
Cha dưới suối vàng mỉm cười
Kẻ thù con sống phải băm ngoài chợ
Xin quan thương con hèn yếu
Xin được theo để hầu cơm nước”
Tiếng nói không nên lời
Nghe như hươu hoẵng buộc ở bếp
Minh phủ thở than
Thở xong lại sụt sùi
“Sóng Động Đình lớp lớp
Động đình nước không quanh co uốn lượn
Cùng Lai Bản cao cao
Chin khúc lượn cũng không hiểm nguy
Ta nay làm chủ chung
Ngươi về báo cho mọi người hay”
Mối thù cha sâu nặng
Cả nhà bỗng lấy làm lạ
Thế như bệnh mới phát
Vụt đến không thể chữa chạy
Cùng lúc bọn người xấu
Lùa đến trói như gà
Còng sáng khoá chùm sỏ
Tất thảy cho vào lao
Có ngựa không có yên
Đường mé Tây xa mãi
Cúi đầu tạ minh phủ
Biết lấy gì tạ ơn
Trước lấy sữa dê đực
Nay tên quay về túi
Làng cô gái xa xa
Nhà cô gái hoang vắng
Mẹ goá tựa cửa thở than
Thở than như vợ Khởi Lương
Con gái đi mẹ nuốt bách
Nuốt bách nay thành đường
Tuy rằng nay thành đường
Nỗi buồn mẹ khó chữa
Trước đây mặt cô gái như ngọc
Tóc cô gái mượt sao
Miệng cô ngậm son
Ngón tay như mầm cây
Khóc nhiều mặt lấm lem
Da sần sùi
Héo hon sống trong phòng
Đen gầy ngỡ là gấu ốm
Bà con cô bác đến thăm
Cô không kịp trâm cài lược dắt
Các bà hàng xóm đến thăm
Vây gọi xung quanh cô
Thảy đều thưởng cảm
Nước mắt ngắn nước mắt dài
Một lát sau bà hàng xóm về hết
Bước đi khoan thai của bà mối đến
Xin mãi mới được gặp cô
Với những lời rất ân cần
Công tử ở phía nam huyện
Đứng đắn không ai bằng
Vàng bạc đầy hai hòm
Lụa mịn mặc không hết
Hẳn sẽ làm quan
Vinh hoa rỡ nhà cửa
Muốn kén bậc hiền nữ
Hiền nữ hơn cả Khương Ky
Quay lại đáp bà mối
Thân tôi vốn hàm vi
Không anh trên em dưới
Nơi nương tựa của mẹ già
Chỉ mong làm được nhiều việc
Khâu giày rồi may vá
Sao được theo người khác
Bỏ mặc ơn mẹ hiền
Tuổi mẹ như đèn trước gió
Mạng sống của cô gái như rau quỳ dưới sương
Bỗng mẹ sinh ốm nặng
Người cha chết đến tìm
Giữa nhà đặt quan quách
Cồn đất dắp mộ cao
Công việc xong tất cả
Mồi cô bác đến đây
Mời cho tôi bậc già cả
Bô lão bước lên thềm
Mời cho tôi hàng xóm
Hàng xóm dến vòng trong vòng ngoài
Mười tuổi theo cha mẹ
Trẻ con còn ngây ngô
Mười năm mang mối thù
Như rót cồn dấm vào mũi
Hai mươi quyết báo thù
Báo thù khổ lại nguy
Ba năm tìm đến Đại Lương
Đến tận miền bắc Triệu nam Yên
Cô gái đi một mình
Cô dừng lại theo cách thức
Ánh trăng soi vằng vặc
Không rơi vào bờ nước bẩn
Cánh chim trĩ lốm đốm hoa gấm
Dẫu chết cũng không vương vào lưới
Từ đó cô vào phòng
Khép chặt hai cánh cửa
Thừng son tám chín thước
Trao ngược lên trên xà
Cây hoa quế tươi tắn
Hoa đẹp lá lạ sao
Xanh tươi hoa bay ngát
Mọc nơi eo núi vắng
Lửa mạnh đốt gò cao
Ba ngày ngọn lửa kông giảm
Đá lớn cao sừng sững
Đá nhỏ nối liền nhau
Cỏ huệ khóc tiêu chi
Muôn giống chung một mầu đen
Cháy hiện vẻ ngọc trắng
Tuyết trắng rét căm căm
Ngọc làm mồ cô gái
Trồng cây quế lên trên
Đêm có ngôi sao lớn
Ánh sáng hắt soi rọi
Thấu tận dưới cây quế
Nghin năm chiếu vẻ ngời

Bản dịch của Lê Xuân Khải

Biển cả sao mênh mông vậy
Dẫu nghìn năm chẳng thấy khác nào
Thái Sơn tự bảo là cao
Tinh vệ vẫn ngậm đá vào mỏ bay
Chim tinh vệ thấy bay buổi sáng
Cánh chim chiều vẫn dáng vệ bay
Máu tuôn thành đụn cát đầy
Một sớm thấy đã đường dài đắp nên
Đâu chỉ có đường nền dài rộng
Còn vút lên thành đống thành cồn
Mặt gái như ngọc tươi ròn
Mầu da như thể thoa son phớt hồng
Hơn mười bốn tuổi vòng trăng náu
Tuổi mười lăm mười sáu đào tơ
Gió xuân yểu điệu thướt tha
Trăng kia còn phải trước cô thẫn thờ
Trong nhà cửa dì cô bác mợ
Cả những bà goá bụa xóm giềng
Người cười nói cô dửng dưng
Người vui cô chỉ rưng rưng khóc hoài
Ngày lại ngày kéo dài như thế
Không thể lành vết nẻ đau thương
Tựa như ăn hóc phải xương
Họng đau lan xuống rốn vùng hai hông
Nghe tiếng mẹ cô không đáp gọi
Cứ đi đi lại lại trong phòng
Rõ là cô chẳng điên cuồng
Cũng không mắc phải bệnh lòng ngây ngô
Cô đem việc người cha hỏi mẹ
Là kẻ nào giết bố của con
Hôm qua đứng trước cửa nhìn
Mắt như muốn rách cố in dáng hình
Kẻ giết cha vẫn nghênh ngang đó
Ngựa ruổi rong tây phố lại đông
Bực không dao nhọn bạch dương
Hồng nghê tôi luyện hai đường hào quang
Dao tước quỳ cô mang mài sắc
Giấu trong người ba tấc từ lâu
Một lòng nguyện với kẻ thù
Xương tan thịt nát máu ngầu cùng nhau
Kẻ thù đó chúng sao mạnh mẽ
Kéo lũ đàn lại khoẻ như trâu
Như sói đói đứa đi đầu
Loài cày hung dữ kẻ sau khác nào
Sợ sẻ vàng diều hâu chống đọ
Bị chúng nhai nát nhỏ thành tương
Đành đem thưa trước huyện đường
Mà sao quan huyện xem dường điếc thinh
Cô lại phải thưa trình lên phủ
Quẩn rồi quanh việc của trung thừa
Uy nghiêm đường bệ có dư
Hàng hàng lính lệ oai phong dữ dằn
Biết đâu người ngồi trên cao đó
Thảy cũng như tượng gỗ đất thôi
Xương nằm dưới đất nát rồi
Bao giờ thù trả than ôi bao giờ
Con côi nhỏ mù mờ mọi nhẽ
Nghe người ta nói ở kinh thành
Kinh thành nhiều bậc quan thanh
Các ngài thảy đã nổi danh tỉnh đài
Mũ thiết trụ quý ngài vẫn đội
Ngang lưng kình hải trãi đai vòng
Sừng hải trãi nhọn lại cong
Có thể có được nhiều lòng sót thương
Cô liền búi gọn gàng mái tóc
May áo theo dáng vóc thân nàng
Thứ gì tay sách tay mang
Mảnh lụa mền có những hàng máu in
Là gì vậy viết lên trên đó
Chữ lờ mờ màu lụa trắng tinh
Nhiều gian khó nhỏ thân hình
Đề phòng chống đỡ tự mình lo thân
Con gái mẹ yếu nên thương quá
Xin mẹ đừng làm ngã lòng con
Con chào mẹ ra đi luôn
Bước ra khỏi cửa tiếp trên đường trường
Nay đang độ tiết đông tháng một
Tháng này trời lạnh nhất mùa đông
Hoàng Hà nước đóng thành băng
Thấu vào da thịt tầng tầng tuyết rơi
Gió bốc mạnh cả trời cuốn lại
Người đi đường mặt dại xạm tro
Tay giơ không thấy tối mò
Đêm dài ôm chặt cây khô rừng già
Tiếng hồng nhạn canh ba loáng thoáng
Sang canh tư tiếng vẳng cáo cày
Canh năm lại tiếp đường dài
Vòng vo chỉ thấy mệt nhoài thèm ăn
Ngước nhìn thấy trường an trước mặt
Ụ nhấp nhô cao tít tường thành
Mười hai cửa đã qua nhanh
Đến nơi thoáng rộng tung hoành dọc ngang
Tay cầm lụa từng hàng chữ viết
Cởi bớt ra áo bết bụi nhàu
Phủ ngự sử quỳ cúi đầu
Đây nơi đình uý thềm cao ba tầng
Quan thượng thư đoan trang cao lớn
Khi ra ngoài lính đón thét đường
Mũ thiết trụ dáng oai phong
Có hình hải trãi đai vòng ngang lưng
Loài hải trãi dẫu sừng không có
Đâu thèm đem ra đọ dê bò
Cô tựa vào cột kêu to
Mặt trời như thể bị mờ nhoà lây
Khí oan kết tầng mây bốc thẳng
Trời vốn giầu vốn nặng lòng thương
Có đất có thể tựa nương
Có trời có thể tỏ tường nỗi oan
Thành cao chẳng vì hờn mà sụt
Gò không do nước mắt sối bằng
Minh phủ lệnh gọi liền sang
Vẫn thấy minh phủ trễ tràng hơi lâu
Trước minh phủ cúi đầu quỳ lạy
Nước mắt rơi sông chảy về đông
“Mọn này nghìn dặm trên đường
Đời nhiều căm uất phải mang mối thù
Thù có thật toa điêu đâu dám
Xin quan trên kẻ mọn này tin
Thù cha nặng nỗi oan khiên
Nặng nề oán khổ liên miên khôn chừng
Nay một sớm rửa xong thù hận
Đáy giếng sâu lại hiện ánh dương
Cha cười ở dưới suối vàng
Kẻ thù ngoài chợ như tương băm vằm
Thương tấm thân yếu hèn để được
Hầu hạ đun cơm nước nguyện theo”
Nói lời nghe tiếng nghẹn ngào
Như con nai trói chờ dao bếp kề
Minh phủ nghe não nề than thở
Than thở xong lại cứ sụt sùi
“Động Đình lớp lớp sóng dồi
Không nơi uốn lượn sắc trời in xanh
Cùng Lai Bản như thành dốc đứng
Chín khúc quanh cũng chẳng hiểm nguy
Việc này ta sẽ chủ trì
Quan về ngươi báo tức thì phân minh”
Kẻ giết cha vẫn nghênh ngang đó
Bỗng cả nhà kinh sợ hãi hùng
Thế như bệnh sởi phát bùng
Đến sao gấp gáp khôn đường thuốc thang
Cả một lũ ngang tàng càn rỡ
Lùa đến như gà qué trói gô
Đầu sỏ khoá cái còng to
Lệnh đem tất cả tống cho vào tù
Không yên cương giật gò ngựa có
Kể từ nay mãi bỏ đường tây
Cúi đầu minh phủ lậy này
Xương tan thịt nát khó thay báo đền
Sữa dê đực trước nghìn lần khó
Nay tên quay về chỗ túi tên
Làng cô mắt dõi xa nhìn
Nhà cô hoang vắng xanh rờn cỏ sân
Bà mẹ goá ngày thân tựa cửa
Vợ Khởi Lương than thở trong lòng
Con đi nuốt bách mẹ mong
Đến nay bách ngọt tựa đường đã quen
Dẫu bách nay trở nên ngon ngọt
Mẹ buồn này khó nhạt khó phai
Mặt con như ngọc trước đây
Đung đưa vai nhỏ tóc mây đen dài
Môi con gái son tươi hoa nở
Ngón tay dài măng trổ xuân sang
Khóc lóc nhiều cát bụi vương
Mặt mày nay đã sẹo mang sần sùi
Ở trong phòng hình hài muốn náu
Nhìn ngỡ đây là gấu ốm nằm
Bà con cô bác đến thăm
Cái lược chẳng dắt cái trâm chẳng cài
Bên hàng xóm có vài bà tới
Xúm quanh cô han hỏi dìu nâng
Thảy đều mắt lệ rưng rưng
Thảy đều giàn giụa không ngưng lệ trào
Các bà xóm hồi lâu về hết
Bà mối liền dịu ngọt bước vào
Ba lần xin gặp khó sao
Ân cần giọng nói ngọt ngào lời khuyên
Công tử vốn ở bên nam huyện
Nết đoan nghiêm khó kén ai bằng
Hai hòm đầy ắp bạc vàng
Mặc không bao hết mịn màng lụa tơ
Người quan tước đương chờ đương đợi
Nhìn cửa nhà chói lọi vinh hoa
Ý nhằm kén gái nết na
Gái ngoan hơn cả dù là Ky Khương
Quay lại đáp chi li bà mối
Thân hàn vi chẳng rối cảnh buồn
Nhà không em dưới anh trên
Tôi nơi trông cạy của thân mẹ già
Mỗi tâm nguyện bỏ ra công sức
Khâu trai tay đồ mặc dép giầy
Theo người nỡ bỏ nơi này
Chia ly quên mẹ ơn dày nghĩa sâu
Tuổi mẹ như đèn dầu trước gió
Như quỳ non sương phủ mệnh con
Bỗng nhiên bệnh mẹ nặng hơn
Sinh mệnh mẹ tắt theo hồn người cha
Con gái đặt giữa nhà quan quách
Đắp điếm xong mả đẹp mồ yên
Việc lo khi đã vẹn tuyền
Bà con cô bác mời lên đủ đầy
Mời hộ cháu vào đây trưởng họ
Bước lên thềm trưởng có mặt ngay
Mời cho hàng xóm quanh đây
Xóm giềng đến đã đứng đầy ngoài trong
Lên mười tuổi theo cùng cha mẹ
Tuổi ấu thơ lứa trẻ ngây ngô
Mười lăm mang nặng oán thù
Mũi cồn cay xé dấm chua đổ vào
Hai mươi tuổi lo sao thù trả
Việc báo thù nguy khổ càng tăng
Ba năm lo đến Đại Lương
Yên nam Triệu bắc biên cương dãi dầu
Than gái đi lấy đâu ra bạn
Dừng nơi đâu lựa chọn hẳn hoi
Trăng treo vằng vặc sáng soi
Quyết không chịu để thân rơi nhơ lầy
Lốm đốm gấm lông dầy chim trĩ
Biết đề phòng lưới chỉ giăng không
Từ đây ở hẳn trong phòng
Đóng chặt cánh cửa hai khoang then cài
Mầu son nhuộm thừng dài chín thước
Thân ung dung treo ngược lên xà
Tươi sao cây quế mầu hoa
Hoa kia đã đẹp lá kia lạ lùng
Hương toả ngát cây bừng tươi tốt
Mọc ở nơi khúc ngoặt núi hoang
Côn Lôn ngùn ngụt lửa loang
Ba ngày ngọn lửa vẫn hăng chưa tàn
Tảng đá lớn cao hơn đứng đó
Đá nhỏ nằm lố nhố dưới chân
Chi bị cháy huệ khóc than
Muôn loài muôn giống thảy đen một màu
Giữa đám cháy bỗng đâu ngọc trắng
Rét căm căm chói sáng tuyết bay
Mồ cô bằng ngọc đem xây
Trồng một cây quế lên ngay trên mồ
Đêm lại đêm sao to ánh chiếu
Như thấu lòng con hiếu nằm đây
Ánh sao chiếu thấu dưới cây
Nghìn thu soi rọi ngời ngời hình dung
Trong Liệt nữ Lý Tam truyện, tác giả có ghi: “Cô gái chết trong thời Khang Hy, đến nay đã năm mươi năm. Năm Mậu Ngọ Càn long thứ 3, ta ở Trường An mới biết, cảm thấy lúc bấy giờ không ai làm thành văn chương để nêu gương, để từng nhà được nghe kể lại, sẽ có tác dụng khuyến thiện trừng ác, nên soạn thuật việc này thành lời ca.”

[1] Truyền thuyết trong Sơn hải kinh, con gái nhỏ của Viêm Đế tên là Nữ Oa, chơi Biển Đông hải bị chết đuối, hoá thành chim tinh vệ, thường ngậm đá gỗ ở núi Tây Sơn để lấp Biển Đông. Ở đây mượn hướng từ tinh vệ lấp biển ca ngợi tinh thần của Lý Tam không nề hiểm nguy, lập chí báo thù cho cha.
[2] Người xưa lấy hồng làm trống, mầu tươi đẹp; nghê làm mái, mầu tối. Đây chỉ sự sắc bén của gươm phát ra ánh lấp loáng.
[3] Chỉ chuỷ thủ (dao găm), tức dao tước quỳ (tên dao).
[4] Ngự sử trung thừa, đây chỉ tuần phủ quan cao nhất ở tỉnh. Lệ nhà Thanh, quan tuần phủ kiêm hàm hữu đô ngự sử, nên gọi là trung thừa.
[5] Chỉ vẻ dữ dằn khi chó nhe răng.
[6] Chỉ chung cơ quan trung ương của triều đình.
[7] Còn có tên là pháp quan, mũ của quan ngự sử ngày xưa.
[8] Loài thú thần một sừng trong truyền thuyết, có thể nhận ra thẳng cong phải trái của sự việc, có in hình trên quan phục của quan ngự sử, án sát sứ đời Thanh.
[9] Nguyên là quan giữ việc hình ngục đời Tần Hán, đây chỉ Đại Lý tự, cơ quan phúc thẩm đời Thanh.
[10] Truyền thuyết nàng Mạnh Khương khóc đổ bức thành. Đây dụng ý trái lại.
[11] Truyền thuyết thời Xuân Thu, Khởi Lương người nước Tề, chết trận ở chân thành Cử, người vợ khóc ở chân thành mười ngày, thành bị đổ, vợ Khởi Lương là Mạnh Khương.
[12] Ky là họ vua nhà Chu, họ vua nước Tề là Khương. Hai họ thường gả con cho nhau, cho nên dùng để chỉ chung phụ nữ quý tộc.
[13] Hai nước này ở phía bắc Trung Quốc, thời Xuân Thu Chiến Quốc. đây chỉ đường lên kinh đô.
[14] Người xưa cho là chim trĩ có tinh cảnh giác cao. Câu này ý là dù chết nhưng không vương vào lưới.
[15] Tiêu là tên tiêu ngải, tên một loài cỏ dại. Chi là tên cỏ thơm. ở đây chỉ cả cỏ dại lẫn cỏ thơm đều bị cháy. Cỏ huệ khóc cỏ chi.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Hồ Thiên Du » Liệt nữ Lý Tam hành