30/03/2024 03:26Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Bạch Thuỷ huyện Thôi thiếu phủ thập cửu ông cao trai tam thập vận
白水縣崔少府十九翁高齋三十韻

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 04/01/2015 22:29

 

Nguyên tác

客從南縣來,
浩蕩無與適。
旅食白日長,
況當朱炎赫。
高齋坐林杪,
信宿遊衍闃。
清晨陪躋攀,
傲睨俯峭壁。
崇岡相枕帶,
曠野懷咫尺。
始知賢主人,
贈此遣愁寂。
危階根青冥,
曾冰生淅瀝。
上有無心雲,
下有欲落石。
泉聲聞復急,
動靜隨所擊。
鳥呼藏其身,
有似懼彈射。
吏隱道性情,
茲焉其窟宅。
白水見舅氏,
諸翁乃仙伯。
杖藜長松陰,
作尉窮谷僻。
為我炊雕胡,
逍遙展良覿。
坐久風頗愁,
晚來山更碧。
相對十丈蛟,
欻翻盤渦坼。
何得空裏雷,
殷殷尋地脈。
煙氛藹崷崒,
魍魎森慘戚。
昆侖崆峒顛,
回首如不隔。
前軒頹反照,
巉絕華嶽赤。
兵氣漲林巒,
川光雜鋒鏑。
知是相公軍,
鐵馬雲霧積。
玉觴淡無味,
胡羯豈強敵。
長歌激屋樑,
淚下流衽席。
人生半哀樂,
天地有順逆。
慨彼萬國夫,
休明備征狄。
猛將紛填委,
廟謀蓄長策。
東郊何時開,
帶甲且來釋。
欲告清宴罷,
難拒幽明迫。
三歎酒食旁,
何由似平昔。

Phiên âm

Khách tòng nam huyện lai,
Hạo đãng vô dữ thích.
Lữ thực bạch nhật trường,
Huống đương chu viêm hách.
Cao trai toạ lâm diểu,
Tín túc du diễn khuých.
Thanh thần bồi tề phan,
Ngạo nghễ phủ tiễu bích.
Sùng cương tương chẩm đới,
Khoáng dã hoài chỉ xích.
Thuỷ tri hiền chủ nhân,
Tặng thử khiên sầu tịch.
Nguy giai căn thanh minh,
Tăng băng sinh tích lịch.
Thượng hữu vô tâm vân,
Hạ hữu dục lạc thạch.
Tuyền thanh văn phục cấp,
Động tĩnh tuỳ sở kích.
Điểu hô tàng kỳ thân,
Hữu tự cụ đạn dịch.
Lại ẩn đạo tính tình,
Tư yên kì quật trạch.
Bạch Thuỷ kiến cữu thị,
Chư ông nãi tiên bách (bá).
Trượng lê trường tùng âm,
Tác uý cùng cốc tích.
Vị ngã xuy điêu hồ,
Tiêu diêu triển lương địch.
Toạ cửu phong phả sầu,
Vãn lai sơn cánh bích.
Tương đối thập trượng giao,
Thúc phiên bàn oa sách.
Hà đắc không lý lôi,
Ân ân tầm địa mạch.
Yên phân ái to tốt,
Võng lượng sâm thảng thích.
Côn Lôn, Không Đồng điên,
Hồi thủ như bất cách.
Tiền hiên đồi phản chiếu,
Sàm tuyệt hoa nhạc xích.
Binh khí trướng lâm loan,
Xuyên quang tạp phong đích.
Tri thị tướng công quân,
Thiết mã vân vụ tích.
Ngọc trường đạm vô vị,
Hồ Yết khởi cưỡng địch.
Trường ca kích ốc lương,
Lệ há lưu nhâm tịch.
Nhân sinh bàn ai lạc,
Thiên địa hữu thuận nghịch.
Khái bỉ vạn quốc phu,
Hưu minh bị chinh địch.
Mãnh tướng phân điền uỷ,
Miếu mưu súc trường sách.
Đông giao hà thì khai,
Đới giáp thả lai thích.
Dục cáo thanh yến bãi,
Nan cự u minh bách.
Tam thán tửu thực bàng,
Hà do tự bình tích.

Dịch nghĩa

Tôi người khách từ huyện phía nam tới,
Đi lang bạt không định chỗ nào.
Suốt ngày dài ăn dọc đường,
Huống chịu nóng đỏ hừng hực.
Phòng cao nằm ngay cuối rừng,
Ở qua đêm càng vắng vẻ.
Sáng sớm cùng được leo lên cao,
Ngạo nghễ cúi xuống nhìn chỏm núi.
Gò cao tưởng như gối nằm,
Đồng rộng trông còn gang tấc.
Mới biết ông chủ hiền,
Được cho cái này để giải buồn.
Gốc của nguy hiểm là nơi xanh um kia,
Các tảng băng sinh ra dòng nước tí tách.
Bên trên có mây lãng đãng,
Bên dưới có đá muốn lăn.
Tiếng suối reo càng gấp,
Im hay động tuỳ theo đợt.
Chim kêu mà không thấy bóng đâu,
Như là sợ bị đạn bắn.
Viên chức nhỏ nói lên cái tính tình mình,
Cứ náu thân trong cương vị.
Huyện Bạch Thuỷ được gặp ông cậu họ,
Ông là người quan thanh liêm, văn chương giỏi.
Chống gậy dưới bóng thông cao,
Giữ chức uý nơi hang cùng vắng vẻ này.
Vì tôi mà nấu rau muống.
Ung dung tiếp đãi trong lễ nghĩa.
Ngồi lâu gió càng buồn,
Chiều tới núi càng xanh sậm.
Giáp mặt thuồng luồng dài mười trượng,
Bỗng cuộn mình lách ra khỏi vũng nước.
Sao có được sấm trên không,
Ầm ầm cúi tìm mạch đất.
Khói hơi đọng ngột ngạt,
Quỷ ma tụ tập lo lắng.
Đỉnh Côn Lôn, Không Đồng kia,
Quay đầu nhìn như liền sau gáy.
Hiên trước trời chiếu xiên,
Chót vót đỏ như núi lớn.
Không khí chiến tranh toả đầy rừng, vũng.
Sông sáng rực vì nhiều loại tên nhọn.
Biết đúng là quân đội của tướng công tới,
Ngựa được che sắt như mây tích tụ.
Chén ngọc nhạt nhẽo không có vị,
Giống người Hung Nô ở vùng Yết há dám chống cự.
Hát vang tưởng như tung mái nhà,
Nước mắt chảy đầy chốn ngủ.
Đời người nửa vui, nửa buồn,
Trời đất lúc thuận, lúc nghịch.
Bồn chồn thay là nghĩa sĩ các nơi,
Phấn khởi chuẩn bị đánh bọn phản loạn.
Tướng giỏi được giao phó nhiều công việc,
Giúp vua bằng những sách lược dài hạn.
Miền đông chừng nào khai thông,
Lúc đó áo trận được cởi bỏ.
Muốn rời bỏ tiệc sang ra về,
Nhưng khó cưỡng lại cái bóng tranh tối tranh sáng.
Nhiều lần bên tiệc rượu than dài,
Làm sao mà có được cảnh yên lành như thời trước.

Bản dịch của Phạm Doanh

Tôi từ miền nam lên,
Bơ vơ chẳng thân thích.
Cả ngày dài ăn đường,
Huống vào lúc nóng nực.
Gác cao gần cuối rừng,
Qua đêm đủ chật ních.
Sáng sớm leo gò cao,
Chênh vênh dựa đá vách.
Gò cao tưởng gối nằm,
Đồng rộng trong tấc thước.
Mới hay chủ nhân hiền,
Có nó bớt buồn bực.
Thềm cao gốc mờ mờ,
Thêm tuyết giỏ róc rách.
Trên có mây lững lờ,
Dưới là đá chênh chếch.
Tiếng suối nghe rào rào,
Im, vang tuỳ dòng thác.
Chim kêu, ẩn nơi nào,
Như sợ đạn nhắm đích.
Chức nhỏ rõ tính tình,
Được yên trong ngõ ngách.
Bạch Thuỷ được gặp ông,
Ông vốn người khí phách.
Chống gậy dưới thông cao,
Quan nhỏ nơi tịch mịch.
Vì tôi luộc rau khoai,
Ung dung thấy thoả thích.
Ngồi lâu gió gây buồn,
Chiều tới, núi đen kịt.
Thuồng luồng mười thước dài,
Bỗng trườn mình khỏi rạch.
Sao được sấm trên không,
Trên đất cố soi mạch.
Ma quỷ nấp xôn xao,
Khói hơi đọng ngột ngạt.
Đỉnh Côn Lôn, Không Đồng,
Quay nhìn như cạnh nách.
Hiên trước trời chiếu xiên,
Giống như núi đỏ rực.
Không khí loạn trùm rừng,
Dáo tên, sông sáng rực.
Biết rõ quân của ông,
Mây dầy trùm ngựa sắt.
Chén ngọc hết thấy cay,
Rợ Hồ há chống được.
Lệ rớt chốn ta nằm,
Rung nhà tiếng ca hát.
Cuộc đời buồn lẫn vui,
Trời đất thuận với nghịch.
Kìa nghĩa sĩ khắp nơi,
Chuẩn bị lo dẹp giặc.
Trao việc cho tướng tài,
Trong triều bàn sách lược.
Vùng đông chừng nào thông,
Áo trận lúc đó gác.
Muốn bỏ tiệc vui về,
Bóng tối khó lần bước.
Thở dài cạnh bàn ăn,
Sao được như thời trước.
(Năm 756)

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Bạch Thuỷ huyện Thôi thiếu phủ thập cửu ông cao trai tam thập vận