09/10/2024 01:06Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 26/04/2015 17:00
Nguyên tác
萬里瞿塘峽,
春來六上弦。
時時開暗室,
故故滿青天。
爽合風襟靜,
高當淚臉懸。
南飛有烏鵲,
夜久落江邊。
Phiên âm
Vạn lý Cù Đường giáp,
Xuân lai lục thượng huyền.
Thì thì khai ám thất,
Cố cố mãn thanh thiên.
Sảng hợp phong khâm tĩnh,
Cao đương lệ kiểm huyền.
Nam phi hữu ô thước,
Dạ cửu lạc giang biên.Dịch nghĩa
Kẽm Cù Đường xa vạn dặm,
Từ độ xuân về có sáu lần trăng mới rồi.
Lúc lúc mở cái phòng tối,
Thường thường đầy cả trời xanh.
Lỡ gặp gió làm áo quần không tung,
Cao ngang với nước mắt đọng nơi má.
Có con chim quạ bay về nam,
Đêm khuya rồi trăng rụng xuống ven sông.Bản dịch của Phạm Doanh
Vạn dặm kẽm Cù Đường,
Xuân về treo sáu lượt.
Phòng tối đôi lúc khui,
Thường thường trời xanh mướt.
Phe phẩy quần không tung,
Cao ngang má lệ ướt.
Ô thước bay về nam,
Đêm khuya trăng sông rớt.
(Năm 767)