29/03/2024 19:07Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Kiều Lăng thi tam thập vận, nhân trình huyện nội chư quan
橋陵詩三十韻,因呈縣內諸官

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 03/01/2015 18:37

 

Nguyên tác

先帝昔晏駕,
茲山朝百靈。
崇岡擁象設,
沃野開天庭。
即事壯重險,
論功超五丁。
坡陀因厚地,
卻略羅峻屏。
雲闕虛冉冉,
風松肅泠泠。
石門霜露白,
玉殿莓苔青。
宮女曉知曙,
祠官朝見星。
空梁簇畫戟,
陰井敲銅瓶。
中使日夜繼,
惟王心不寧。
豈徒恤備享,
尚謂求無形。
孝理敦國政,
神凝推道經。
瑞芝產廟柱,
好鳥鳴岩扃。
高嶽前嵂崒,
洪河左瀅濙。
金城蓄峻址,
沙苑交回汀。
永與奧區固,
川原紛眇冥。
居然赤縣立,
臺榭爭岧亭。
官屬果稱是,
聲華真可聽。
王劉美竹潤,
裴李春蘭馨。
鄭氏才振古,
啖侯筆不停。
遣辭必中律,
利物常發硎。
綺繡相輾轉,
琳琅逾青熒。
側聞魯恭化,
秉德崔瑗銘。
太史候鳧影,
王喬隨鶴翎。
朝儀限霄漢,
容思回林坰。
轗軻辭下杜,
飄颻凌濁涇。
諸生舊短褐,
旅泛一浮萍。
荒歲兒女瘦,
暮途涕泗零。
主人念老馬,
廨署客秋螢。
流寓理豈愜,
窮愁醉未醒。
何當擺俗累,
浩蕩乘滄溟。

Phiên âm

Tiên đế tích yến hạ,
Tư sơn triều bách linh.
Sùng cương ủng tượng thiết,
Ốc dã khai thiên đình.
Tức sự tráng trọng hiểm,
Luận công siêu ngũ đinh[1].
Pha đà nhân hậu địa,
Khước lược la tuấn bình.
Vân khuyết hư nhiễm nhiễm,
Phong tùng túc linh linh.
Thạch môn sương lộ bạch,
Ngọc điện môi đài thanh.
Cung nữ hiểu tri thự,
Từ cung triêu kiến tinh.
Không lương thốc hoạ kích,
Âm tỉnh xao đồng bình.
Trung sứ nhật dạ kế,
Duy vương tâm bất ninh.
Khởi đồ tuất bị hưởng,
Thượng vị cầu vô hình.
Hiếu lý đôn quốc chính,
Thần ngưng thôi đạo kinh.
Thuỵ chi sản triều trụ,
Hảo điểu minh nham quynh.
Cao nhạc tiền lột ngột,
Hống hà tả oánh vinh.
Kim thành súc tuấn chỉ,
Sa uyển giao hồi thinh.
Vĩnh dữ úc âu cố,
Xuyên nguyên phấn miểu minh.
Cư nhiên Xích huyện lập,
Đài tạ tranh thiều đình.
Quan thuộc quả xứng thị,
Thanh hoa chân khả thinh.
Vương, Lưu mỹ trúc nhuận,
Bùi, Lý xuân lan hinh.
Trịnh thị tài chấn cổ,
Đạm hầu[2] bút bất đình.
Khiển từ tất trúng luật,
Lợi vật thường phát hình.
Ỷ tú tương triền chuyển,
Lâm lang dũ thanh huỳnh.
Trắc văn Lỗ Cung[3] hoá,
Bỉnh đức Thôi Viện[4] minh.
Thái sử hậu phù ảnh,
Vương Kiều[5] tuỳ hạc linh.
Triều nghi hạn tiêu hán,
Dung tứ hồi lâm quynh.
Khảm kha từ Hạ Đỗ,
Phiêu diêu lăng trọc Kinh.
Chư sinh cựu đoản cát,
Lữ phiếm nhất phù bình.
Hoang tuế nhi nữ sấu,
Mộ đồ thế tứ linh.
Chủ nhân niệm lão mã,
Giải thự khách thu huỳnh.
Lưu ngụ lý khởi khiếp,
Cùng sầu tuý vị tinh.
Hà đương bãi tục luỵ,
Hạo đãng thặng thương minh.

Dịch nghĩa

Thời trước mỗi khi vua băng,
Thì nơi núi này có hàng trăm linh hồn về chầu.
Lễ đài được dựng trên gò cao,
Nơi ruộng tốt trở nên một cái nhà lớn.
Công tác dự toán vô cùng quan trọng,
Thi hành việc đòi hỏi công vượt quá sức năm tên.
Các thế đất nghiêng dốc được san cho nền vững,
Phá bỏ cái cao ngăn chắn vướng mắc.
Cửa mây trống nhẹ nhẹ lùa,
Gió thông nghiêm trang rung rinh.
Cửa đá sương móc trắng bám,
Điện thờ rêu xanh leo.
Cung nữ sáng sớm thấy mặt trời,
Các quan giữ đền chiều tối thấy sao trời.
Các xà ngang trong đền có vẽ đầy các thanh đao,
Các chậu đồng lao xao trong giếng dưới mái nhà.
Các hoạn quan thay phiên nhau chầu ngày đêm,
Chỉ vì nhà vua mà lòng không yên.
Nào có phải là lo đồ cúng không đủ đâu,
Mà còn căn dặn để ý đến cả cái vô hình nữa.
Lòng hiếu thảo chỉnh đốn nền chính trị nước nhà,
Thần linh ngưng lại nơi dẫn giắt lối đi.
Cỏ chi linh thiêng trồng ngay trong cột miếu,
Giọng chim hót véo von trên vòm cửa cao.
Phía trước mặt là núi cao vòi vọi,
Bên trái là sông chảy rào rào.
Thành vững bảo vệ cái nền cao,
Vườn thông với vũng cát quanh co.
Sẽ mãi mãi cùng với đất dày,
Sông với đồng bằng mờ ảo huyền diệu.
Hiển nhiên là huyện Xích được tạo lập,
Đền đài tranh nhau vươn cao.
Quan thuộc quả là xứng như thế,
Tiếng thơm thực đáng để nghe.
Vương, Lưu khiến cho trúc vốn tươi mát nay đẹp hơn,
Bùi, Lý khiến cho mùi lan thêm tươi mát.
Tài họ Trịnh làm rung cả người xưa,
Đạm hầu không hề ngưng bút.
Tả lời tất là đúng với luật,
Làm lợi cho vật thường khiến cứ thế mà tiến lên.
Lung linh như gấm dệt,
Lóng lánh hơn ánh đom đóm xanh.
Lắng nghe lời bàn về việc giáo hoá (thực hành đạo lý) của Lỗ Cung,
Nắm vững cái đức là bài minh của Thôi Viện.
Quan thái sử chờ đợi bóng con chim le,
Nhưng Vương Kiều đã theo cánh hạc mất rồi.
Nghi lễ nơi cung vua cao vút tận trời,
Bóng dáng trở lại nơi rừng thẳm.
Xe gập gềnh rời vùng Hạ Đỗ,
Phiêu diêu vươn lên khỏi sông Kinh đục.
Tôi là một tên học trò cũ mặc vải,
Chịu cảnh bềnh bồng như cánh bèo.
Gặp năm đói kém, con cái tong teo,
Chiều lê bước trên đường mà nước mắt rơi.
Vị chủ (quan huyện sở tại) thương cho thân ngựa già (tác giả tự xưng),
Mở cửa công đường huyện mà cho con đom đóm mùa thu này trọ lại.
Ở tạm há dám thoả thích,
Quá buồn nên say chưa tỉnh.
Làm sao bỏ được mọi hệ luỵ trên đời,
Để mà thanh thoát trên cõi không trung.

Bản dịch của Phạm Doanh

Các vua trước xưa, khi khuất bóng,
Trăm linh hồn về đóng núi này.
Nền cao lễ đài dựng xây,
Nhà lớn được cất trên ngay ruộng mầu.
Việc sắp xếp phải theo qui củ.
Công việc xây cần đủ năm tên.
Đất dốc lo mà san nền,
Cái gì che lấp cũng cần cắt ngay.
Cửa rộng lớn lớp mây lồng lộng,
Gió qua thông, lay động lung linh.
Cửa đá sương móc trắng tinh,
Điện ngọc có đám rêu xanh bám dầy.
Cung nữ sáng sớm hay lúc rạng
Quan coi cung chiều ngóng sao trời.
Xà không dáo vẽ khắp nơi,
Gáo đồng vang vọng giếng khơi trong nền.
Các quan hoạn ngày đêm thay lượt,
Chỉ vì vua, bứt rứt không nguôi.
Nào vì đồ cúng chẳng tươi,
Mà còn lưu ý cả nơi vô hình.
Dõi lòng hiếu thi hành việc nước,
Có thần linh dắt bước đi theo.
Quanh cột miếu, cỏ chi leo,
Nơi vòm cửa tiếng chim kêu rộn ràng.
Ngay trước cửa, non sừng sững đứng,
Bên trái lăng, sông sóng rào rào.
Thành vàng ngăn cái bờ cao,
Bãi vườn lấn tới đi vào bờ doi.
Cùng đất dầy, muôn đời còn mãi,
Sông với đồng rộng rãi lan xa.
Xích huyện do đó lập ra,
Khắp vùng san sát cửa nhà cao sang.
Danh thơm xứng với hàng quan chức,
Tiếng lành đồn đích thực để nghe.
Vương, Lưu đề trúc đẹp ghê,
Lan xuân Bùi, Lý thêm bề nức thơm.
Tài họ Trịnh vượt hơn người trước,
Bút ông Đạm chẳng ngớt chút nào.
Tuôn lời đúng luật khít khao,
Cứ theo đà đó theo nhau mà thành.
Hệt gấm đẹp cứ sinh ra mãi,
Lấp lánh xa, như cái đóm xanh.
Lỗ Cung chăm chút dân lành,
Thôi Viện, đức độ bài minh bao gồm.
Quan thái sử lệnh nom bóng vịt,
Vương Kiều theo hạc vút xa rồi.
Lễ nghi cao tới tận trời,
Dung nhan lẩn quất khắp nơi núi đồi.
Khấp khểnh đi từ nơi hạ Đỗ,
Sông Kinh đục gắng gổ vượt qua.
Quần cụt chú học trò xưa,
Cánh bèo trôi nổi bây giờ lênh đênh.
Gặp năm đói các con èo uột,
Quãng đường chiều nước mắt chứa chan.
Ngựa già, quan huyện thương thân,
Đóm thu nương náu mở lần cửa sâu.
Thân tạm trú dám nào thoả tính,
Bởi quá buồn chưa tỉnh rượu say.
Làm sao tục luỵ dứt ngay,
Để cho phấn khởi lòng này bay cao.
(Năm 754)

Duệ Tông, do con là Lý Long Cơ, sau khi dẹp được bè phái Vũ Hậu, đưa lên làm vua trong hai năm (710-712) rồi lại nhường ngôi cho con. Khi qua đời, ông được an táng ở Kiều Lăng, nên đổi tên huyện Bồ Thành 蒲城 (tên đất thời Xuân Thu là ấp nhà Tấn, nay thuộc huyện Ẩn, tỉnh Sơn Tây) ra Phụng Tiên 奉先, đặt quan cai trị như ở kinh đô vậy.

[1] Phiếm chỉ, ý nói nhiều người.
[2] Tức Đạm Trợ 啖助 (724-770), tự Thúc Tá 叔佐, người Triệu Châu, Hà Bắc, sau về ngụ cư ở Quan Trung, là một học giả đời Đường, chuyên về kinh học, giải thích các kinh điển cũ bằng quan điểm mới.
[3] Tự Trọng Khang 仲康, người Bình Lăng, Phù Phong thời Đông Hán. Người có tài cai trị, giáo hoá dân bằng lễ, nghĩa.
[4] Tự Tử Ngọc 子玉, người An Bình thời Hậu Hán, có bài "Toà hữu minh" 座右銘.
[5] Còn có tên là Vương Tử Tấn 王子晉, hay Vương Tử Kiều 王子喬, là một nhân vật thần tiên trong "Hậu Hán thư" của Lưu Hướng 劉向 đời Hán. Vương Kiều là quan có tài như thần, ngày sóc và vọng mỗi tháng tới triều mà không đi bằng ngựa hay xe. Vua sai quan thái sử rình coi. Ông ta về bá cáo rằng chỉ thấy có hai con le từ phía đông nam bay tới. Do đó chờ khi con le tới giăng lưới bắt, nhưng lại chỉ thu được chiếc giày. Chữ "phù tích" 鳧舄 (cái giày của con le) có từ đó.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Kiều Lăng thi tam thập vận, nhân trình huyện nội chư quan