19/04/2024 17:03Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Gia Định thất thủ vịnh

Tác giả: Phan Văn Trị - 潘文值

Thể thơ: Phú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Cận đại
Đăng bởi Vanachi vào 12/01/2008 16:55

 

Thương thay đất Gia Định,
Tiếc thay đất Gia Định!

Vực thẳm nên cồn;
Đất bằng nổi sóng.

Tàu khói chạy mây tuôn sông mấy khúc, lờ lạt Bến Trâu[1];
Dây thép giăng chớp nháng đất ngàn trùng, ngã xiêu Thành Phụng[2].

Bờ cõi phân chia khác mắt, trông ra như quáng như mù;
Giang sơn dời đổi lạ mày, tưởng tới dường mê dường tỉnh.

Lớp cũ tàn, lớp mới mọc, ngổn ngang xe ngựa đất gò bằng;
Dấu trước lấp, dấu sau bồi, tan nát cửa nhà trời dậy sấm.

Ấm á súng rền kinh cửa Bắc, hãi hùng trăm họ dứt câu ca[3];
Tò le kèn thổi tối trời Nam, ngơ ngác năm canh không tiếng trống.

Hào kiệt tìm phương lánh mặt, sa cơ gió hạc[4] lúc hư kinh[5];
Anh hùng kiếm chốn ẩn thân, sút thế nước cờ cơn lúng túng.

Từ Bến Thành[6] trải qua Chợ Sỏi[7], loài tanh hôi lang lệ biết bao nhiêu;
Nơi Chợ Lớn[8] sắp tới Cầu Kho[9], quân mọi rợ lẫy lừng nên quá lắm.

Cầu Thị Nghè[10] cùng nơi Chợ Quán[11], chúa Giê-su đắc ý vểnh râu;
Chùa Cẩm Đệm[12] trải đến Cây Mai[13], phật Bồ Tát chịu nghèo ôm bụng.

Nơi nơi nổi xóm đạo nhà thờ;
Chốn chốn lập chùa thiêng miếu thánh[14].

Dọc dọc ngang ngang mấy lớp, thảy đều chúng nó lâu đài;
Văn văn võ võ hai bên, nào thấy quan ta võng lọng.

Ngậm ngùi thay ba bốn lân Gò Vấp[15], cây cỏ khô, thân thế đều khô;
Bát ngát nhẽ Mười tám thôn Vườn Trầu[16], hoa trái rụng, người đời cũng rụng.

Mấy dặm Gò Đen, Rạch Kiến[17], ngọn lửa thiêu sự nghiệp sạch không;
Đòi nơi Rạch Lá, Gò Công[18], trận gió quét cửa nhà trống rỗng.

Tiếng kêu oan, oan này vì nước, hồn nghĩa dân biết dựa vào đâu?
Thân liều thác, thác cũng vì vua, xương nghĩa sĩ chất đà đầy đống.

Sông suối đào, mồ xiêu mả lạc, thương thay kẻ thác chẳng an hồn;
Đường sá đắp, cửa nát nhà tan, cực bấy người còn khôn nỗi sống.

Sau trước vầy đàng tả đạo, dân ta đòi bữa đòi suy;
Đêm ngày ỏi tiếng Lang Sa[19], thế nó càng ngày càng lộng.

Cờ Thành Thang[20] sao không thấy phất, bỏ liều con đỏ chốn chông gai;
Áo Võ Vương[21] sao chẳng thấy cài, nỡ để dân đen trong bùn lấm.

Đầu Trung Nguyên tóc hãy còn dài, công này nhờ Chu Bá, học Xuân Thu xin chớ biếm Hoàn Công[22];
Tay tả nhậm[23] áo kia khỏi mặc, việc ấy bởi vì ai, học Luận Ngữ cớ sao chê Quản Trọng[24]?

Bóng xế dặm ngàn trong man mác, nước non này ai thấy chẳng buồn;
Trời chiều chim chóc nhảy lăng xăng, tình cảnh ấy lòng nào chẳng động?

Nay ta nhân cảm việc đời,
Vậy mới tả một bài ngâm vịnh:

Dắng dỏi lầu Tây tiếng địch xoang,
Đoái trông thấp thoáng bóng dương tàn.
Giang sơn tám cõi êm tì báo,
Thế giới ba ngàn nổi sói lang.
Áy náy người lo ơn cúc dục,
Bâng khuâng kẻ tưởng nghĩa quân vương.
Ai về bến bắc thăm người Võ,
Hỏi cán cờ mao trải mấy sương?
Bài này do học giả Trương Vĩnh Ký sưu tầm mới được 7 cặp câu và ghi tác giả là khuyết danh. Sau này, ông Thái Bạch trong Thi văn quốc cấm và sau nữa là ông Lãng Nhân trong Truyện Làng Nho (NXB Nam Chi tùng thư, 1966) đều ghi tác giả là Phan Văn Trị, nhưng cả hai ông đều không nêu ra chứng cứ. Các sách Sài Gòn Gia Định qua thơ văn xưa (nhóm tác giả Nguyễn Khuê, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Trần Khuê, NXB TP. Hồ Chí Minh, 1987, tr. 280) và Hào khí Đồng Nai (Ca Văn Thỉnh, NXB TP. Hồ Chí Minh, 1983, tr. 138) vẫn ghi là khuyết danh.

Mùa xuân năm Kỷ Mùi niên hiệu Tự Đức thứ 12 (1859), lợi dụng danh nghĩa bảo vệ các giáo sĩ, binh thuyền thực dân Pháp do R. de Genouilly từ Đà Nẵng tiến vào cửa Vũng Tàu, mở màn cuộc chiến xâm lược nước ta. Đoàn chiến thuyền gồm 14 chiếc với hơn 3000 lính nhả đạn vào các công sự phòng thủ và chiến thuyền nước ta, rồi qua cửa Cần Giờ tiến vào nội địa. Tổng đốc Gia Định là Võ Duy Ninh tự đi đem binh các tỉnh tiếp viện. Nhưng chỉ trong hai ngày, thành Gia Định, căn cứ trọng yếu nhất của miền Nam đã bị hạ và san thành bình địa, Võ Duy Ninh tử trận. Từ đó trở đi, chủ quyền nước ta dần rơi vào tay giặc Pháp.

Bản ở trên theo Tổng tập dư địa chí Việt Nam.

Bản theo Thi văn quốc cấm thời thuộc Pháp:
Thương thay đất Gia Định,
Tiếc thay đất Gia Định!

Vực hoá nên cồn;
Đất bằng nổi sóng.

Tàu khói chạy mây tuôn sông mấy khúc, lờ lạt Bến Trâu;
Dây thép giăng nhấp nhoáng đất ngàn trùng, ngã xiêu Thành Phụng.

Bờ cõi phân chia khác mặt, trông ra như quáng như mờ;
Giang sơn dời đổi hoạ mi, tưởng tới dường mê dường mộng.

Lớp cũ tàn, lớp mới mọc, ngổn ngang xe ngựa đất gò bằng;
Dấu trước lấp, dấu sau bồi, tan nát cửa nhà trời dậy sấm.

Inh ỏi súng rền kinh cửa Bắc, hãi hùng trăm họ dứt âu ca;
Tò le kèn thổi tối trời Nam, man mác năm canh không tiếng trống.

Hào kiệt tìm phương lánh mặt, sa cơ gió hạc lúc hư kinh;
Anh hùng kiếm chốn ẩn thân, sút thế nước cờ cơn lúng túng.

Từ Bến Thành trải qua Chợ Đũi, loài tinh chiên loạn xạ biết bao nhiêu;
Nơi Chợ Lớn sấp đến Cầu Kho, quân mọi rợ lẫy lừng nên quá lắm.

Cầu Bà Nghè cùng nơi Chợ Quán, quân tham tàn đắc ý vênh râu;
Chùa Cẩm Thảo trải tới Cây Mai, phật Bồ Tát chịu nghèo ôm bụng.

Nơi nơi nổi xóm mới nhà tây;
Chốn chốn lập đồn canh ụ súng.

Ngậm ngùi thay ba bốn làng Gò Vấp, cây cỏ khô, thân thế đều khô;
Bát ngát nhỉ Mười tám thôn Vườn Trầu, hoa trái rụng, người đời cũng rụng.

Mấy dặm Gò Đen, Rạch Kiến, ngọn lửa thiêu sự nghiệp tan tành;
Đòi nơi Rạch Lá, Gò Công, trận gió quét cửa nhà trống lỗng.

Tiếng kêu oan, oan này bởi nước, hồn nhân dân biết dựa vào đâu?
Thân liều thác, thác cũng vì vua, xương nghĩa sĩ chất đà nên đống.

Sông núi đào, mồ xiêu mả lạc, thương thay người thác chẳng yên phần;
Đường sá đắp, cửa nát nhà tan, cực bấy kẻ còn khôn nỗi sống.

Sau trước vầy đoàn bạch thuỷ, dân ta đòi bữa đòi suy;
Đêm ngày ỏi tiếng Lang Sa, thế nó càng ngày càng lộng.

Cờ Thành Thang sao không thấy phất, bỏ liều con đỏ chông gai;
Áo Võ Vương sao chẳng thấy gầy, nỡ để dân đen bùn lấm.

Đầu trung nguyên tóc hỡi còn dài, ơn này nhờ Chu Bá, học Xuân Thu xin chớ kiếm Hoàn Công;
Tay tả nhẫm áo kia khỏi mặc, việc ấy bởi vì ai, học Luận Ngữ cớ sao chê Quản Trọng?

Bóng xế dậm ngàn trong man mác, nước non này ai thấy chẳng buồn;
Trời chiều chim chóc nhẩy lăng xăng, tình cảnh ấy lòng nào chẳng động?

Nay ta nhân cảm với cuộc đời,
Vậy nên tả một bài ngẫu vận.

[1] Bến Trâu (tên chữ là Ngưu Chử) tức Bến Nghé (bờ sông Tôn Đức Thắng, quận 1, TP Hồ Chí Minh ngày nay).
[2] Năm 1835, sau khi đánh dẹp cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi, vua Minh Mạng sai phá thành cũ (Thành Quy, có 8 cạnh), xây thành mới gọi là Thành Phụng (là thành tứ giác có 4 cạnh). Năm 1859, quân thực dân Pháp tấn công thành. Và sau khi thành bị đánh hạ, họ đã phá huỷ hoàn toàn.
[3] Có bản chép là “âu ca”, có nghĩa là hát để khen ngợi công đức.
[4] Do chữ “phong thanh hạc lệ”, là nghe tiếng gió thổi, chim hạc kêu mà phập phồng lo sợ tưởng như giặc đến nơi. Tích Bồ Kiên vua nhà Tần khi bị quân nhà Tấn đuổi đánh, quân sĩ tới đâu nghe tiếng gió thổi, hạc kêu cũng giật mình tưởng quân Tấn đến bên mình.
[5] Kinh hãi vì việc không đâu.
[6] Chợ Bến Thành xưa nằm ở góc bờ sông Sài Gòn với đường Kinh Lấp (nay là đường Nguyễn Huệ).
[7] Chợ Sỏi (vì nơi bến sông có nhiều cát sỏi nên gọi vậy) nằm sát vàm Bến Nghé, thuộc làng Tân Khai, nay là đầu đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 1, TP Hồ Chí Minh. Sau khi người Pháp quy hoạch lại thành phố Sài Gòn thì chợ không còn nữa.
[8] Chợ Lớn nói đây nay ở trung tâm quận 5, TP Hồ Chí Minh.
[9] Gọi là Cầu Kho vì xưa kia có cái cầu bắc ngang qua con rạch ăn vào kho Cẩm Thảo (nơi chứa lúa từ lục tỉnh chở lên nộp cho vua). Theo Nguyễn Đình Đầu thì Cầu Kho ở bờ rạch Bến Nghé, nơi đầu đường Trần Đình Xu, quận 1 ngày nay.
[10] Cầu Thị Nghè là cây cầu bắc qua rạch Thị Nghè (đoạn gần hạ lưu đổ vào sông Sài Gòn), nối quận 1 và quận Bình Thạnh. Cầu xưa kia do bà Nguyễn Thị Khánh (con gái tướng Nguyễn Cửu Vân) làm ra để chồng tiện đường qua Sài Gòn làm việc.
[11] Chợ Quán khi trước ở tại làng Tân Kiểng (kế làng Nhơn Giang và Bến Nghé) nên còn gọi là chợ Tân Kiểng. Đây là một trong số ít ngôi chợ có từ nửa cuối thế kỷ 18 ở trấn Phiên An. Gọi là Chợ Quán vì thuở trước chợ nhóm ở lối nhà thương Chợ Quán (nay là Trung tâm Bệnh nhiệt đới ở số 190 Bến Hàm Tử, phường 1, quận 5, TP Hồ Chí Minh), chung quanh chợ có nhiều quán xá. Theo Nguyễn Đình Đầu, thì Chợ Quán nằm ở khoảng đường Trần Bình Trọng ra bến Hàm Tử thuộc quận 5 ngày nay.
[12] Chùa Cẩm Đệm tức chùa Giác Lâm, hiện toạ lạc tại số 118 đường Lạc Long Quân, thuộc phường 10, quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh.
[13] Chùa Cây Mai toạ lạc trên gò Mai, thuộc Gia Định xưa. Trong thời Pháp thuộc, ngôi chùa đã bị tháo gỡ, chỉ còn lại một gò Mai gần như phẳng lì, nằm ở góc đường Hồng Bàng - Nguyễn Thị Nhỏ thuộc phường 16, quận 11, TP Hồ Chí Minh.
[14] Chú thích của Nguyễn Đình Đầu: Tác giả không ưng cả “xóm đạo nhà thờ” lẫn “chùa thiêng miếu thánh”, theo tinh thần Dương Từ - Hà Mậu của Nguyễn Đình Chiểu chăng?
[15] Gò Vấp tức gò có nhiều cây vắp (vắp nói trại thành vấp). Người Chăm gọi cây này là krai và xem như là thần mộc, yểm hộ cho dân tộc họ (theo Gia Định xưa, tr. 93). Đất Gò Vấp xưa thuộc tổng Bình Trị Hạ, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (1836), nay thuộc quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh.
[16] Mười tám thôn Vườn Trầu, (tên chữ là Thập bát phù viên), là một tên gọi dùng để chỉ địa danh của một vùng đất, mà nay bao gồm địa giới của huyện Hóc Môn, Quận 12 và một phần huyện Củ Chi, TP Hồ Chí Minh.
[17] Hai địa danh xưa thuộc huyện Phước Lộc (là một trong 4 huyện của phủ Tân An, thuộc tỉnh Gia Định), nay thuộc tỉnh Long An.
[18] Hai địa danh xưa thuộc huyện Tân Hoà, nay thuộc tỉnh Tiền Giang. Hai địa danh này gợi nhớ đến cuộc khởi nghĩa của Trương Định (bị quân Pháp đánh dẹp năm 1864).
[19] Phiên âm từ tên nước France (Pháp) mà ra, còn gọi là Pha Lang Sa, Phú Lãng Sa, hay Phờ Lăng Sơ.
[20] Thành Thang (trị vì 1766 TrCN - 1761 TrCN) tên thật là Tử, lật đổ vua Kiệt tàn bạo, và thành lập nhà Thương.
[21] Võ Vương tức Chu Vũ Vương (trị vì 1027 TrCN - 1025 TrCN, tên thật là Cơ Phát hay Tây Bá Phát. Ông là người đã lật đổ vua Trụ tàn bạo của nhà Thương, và thành lập nhà Chu.
[22] Ý nói đời Chu. Tề Hoàn Công làm bá chủ chư hầu, đánh bại Nhung, Địch, bảo vệ nhà Chu và cứu nước nhà.
[23] Khép vạt áo sang bên tả, chỉ tục mọi rợ. Tích trong câu của Khổng Tử: “Không có Quản Trọng thì chúng ta sẽ khép vạt áo sang bên tả hết”, ý nói không có Quản Trọng thì phong hoá suy đồi, văn mình sẽ thành mọi rợ hết.
[24] Quản Trọng (725 TrCN - 645 TrCN) là một chính trị gia, nhà quân sự thời Xuân Thu của Trung Quốc. Ông đã giúp Tề Hoàn Công chỉnh đốn chính trị và quân bị, tập hợp chư hầu xướng nghĩa tôn Chu (thiên tử) làm nên nghiệp bá. Câu này và câu trên đại để nói là nếu không có Tề Hoàn Công làm bá chư hầu, Quản Trọng làm tướng thì Trung Nguyên (là nơi phát nguyên của nền văn minh Trung Hoa) đã phải róc tóc, mặc áo cài bên trái (tả nhậm) kiểu man di (Nhung, Địch,...) rồi!

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Phan Văn Trị » Gia Định thất thủ vịnh