26/04/2024 13:26Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hồi 03

Tác giả: Nguyễn Du - 阮攸

Thể thơ: Lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 29/06/2005 11:08

 

Mơ chị Đạm Tiên mộng đề thơ mười vận
Nhớ chàng Kim Trọng mong đính ước trăm năm
(Câu 171-238)


Kiều từ trở gót trướng hoa
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không
Gương Nga[1] chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước[2], cây lồng bóng sân
175. Hải đường lả ngọn đông lân[3],
Giọt sương gieo nặng, cành xuân là đà
Một mình lặng ngắm bóng Nga[4]
Rộn đường gần với nổi xa bời bời:
Người mà[5] đến thế thì thôi,
180. Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi
Người đâu[6] gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Ngổn ngang trăm mối tơ lòng,
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình
185. Chênh chênh bóng nguyệt xế mành
Tựa ngồi bên triện[7], một mình thiu thiu.
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều[8],
Có chiều phong vận[9], có chiều thanh tân[10]
Sương in mặt, tuyết pha thân[11],
190. Sen vàng[12] lãng đãng[13], như gần như xa

Rước mừng, đón hỏi dò la:
Đào Nguyên[14] lạc lối đâu mà đến đây?
Thưa rằng: Thanh khí[15], xưa nay,
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên?
195. Hàn gia[16] ở mái tây thiên[17],
Dưới dòng nước chảy, bên trên có cầu
Mấy lòng hạ cố[18] đến nhau,
Mấy lời hạ tứ[19] ném châu gieo vàng.
Vâng trình hội chủ xem tường,
200. Mà xem trong sổ đoạn trường[20] có tên
Âu đành quả kiếp nhân duyên[21],
Cũng người một hội, một thuyền đâu xa.
Này mười bài mới, mới ra,
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.
205. Kiều vâng lĩnh ý đề bài,
Tay tiên một vẫy, đủ mười khúc ngâm
Xem thư nấc nở khen thầm:
Giá đành tú khẩu, cẩm tâm[22] khác thường!
Ví đem vào tập đoạn trường,
210. Thì treo giải nhất, chi nhường cho ai!

Thềm hoa khách đã trở hài,
Nàng còn cầm lại một hai tự tình
Gió đâu sịch bức mành mành,
Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao
215. Trông theo nào thấy đâu nào,
Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây.
Một mình lưỡng lự canh chầy,
Đường xa, nghĩ nỗi sau này mà kinh!

Hoa trôi, bèo giạt, đã đành,
220. Biết duyên mình, biết phận mình, thế thôi!
Nỗi riêng lớp lớp sóng giồi,
Nghĩ đòi cơn, lại sụt sùi đòi cơn[23]
Giọng Kiều rền rỉ trướng loan[24],
Nhà huyên[25] chợt tỉnh, hỏi: Cơn cớ gì?
225. Cớ sao trằn trọc canh khuya,
Màu hoa lê[26] hãy đầm đìa giọt mưa?
Thưa rằng: Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh[27] đòi nợ tóc tơ chưa đền
Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,
230. Nhắp đi, thoắt thấy ứng liền chiêm bao
Đoạn trường là số thế nào?
Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia
Cứ trong mộng triệu mà suy
Phận con thôi có ra gì mai sau!
235. Dạy rằng: Mộng triệu[28] cứ đâu?
Bỗng không mua não chuốc sầu, nghĩ nao!
Vâng lời khuyên giải thấp cao
Chưa xong điều nghĩ, đã đào mạch Tương[29]
[1] Theo truyền thuyết trong cung trăng có chị Hằng Nga, nên thường gọi trăng là “gương Nga”.
[2] Ánh trăng vàng dọi xuống ngấn nước.
[3] Xóm bên đông, nơi có con gái đẹp ở, cũng giống nghĩa chữ “tường đông” (Là bức tường ở phía đông. Thời xưa con gái thường ở nhà phía đông. Đây dùng chữ “tường đông” để chỉ chỗ có con gái đẹp ở). Cả câu ý nói cây hải đường ở xóm đông ngả ngọn xuống.
[4] Bóng trăng.
[5] Chỉ Đạm Tiên.
[6] Chỉ Kim Trọng.
[7] Lan can.
[8] Người con gái xinh đẹp.
[9] Yểu điệu.
[10] Thanh tú tưới tắn.
[11] Ý nói mặt và thân hình người tiểu kiều đó như có sự và tuyết in phủ lấy.
[12] Chỉ gót chân người đẹp. Đông Hôn Hầu nhà Tề thời Nam Bắc triều rất yêu quí phi họ Phan, từng đúc hoa sen bằng vàng lát xuống nền nhà, để cho nàng đi lên rồi khen rằng: “Bộ bộ sinh liên hoa” (Mỗi bước đi nở ra một hoa sen).
[13] Tiếng cổ, có nghĩa là đi từ từ chậm chậm, chập chờn mờ tỏ.
[14] Đời Tần có một người đánh cá chèo thuyền ngược theo một dòng suối đi mãi tới một khu rừng trồng toàn đào, thấy nơi đó có một cảnh sống tuyệt đẹp như nơi tiên ở. Người sau dùng chữ “nguồn đào” hay “động đào” để chỉ cảnh tiên.
[15] “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” (cùng một thứ tiếng thì ứng với nhau, cùng một loại khí thì tìm đến nhau).
[16] Hàn là nghèo, gia là mọn, nhà xoàng, lạnh lẽo, nói khiêm tốn.
[17] Phía trời đàng tây, hoặc cánh đồng phía tây.
[18] Trông xuống, chiếu cố đến nhau.
[19] Ban xuống, ban cho. Cả câu ý nói hai bài thơ của Kiều lời đẹp ý hay, thật quý báu như là ném cho những hạt châu, gieo cho những thỏi vàng vậy.
[20] Đoạn trường: đứt ruột, chỉ sự đau đớn bi thương. Sổ đoạn trường: sổ ghi tên những người phụ nữ bạc mệnh.
[21] Quả là kết quả. Nhân là nguyên nhân, ý nói duyên (tốt). hay kiếp (xấu) cũng là có nhân với quả cả.
[22] Tú khẩu, cẩm tâm]Miệng thêu, lòng gấm. Ý nói thơ Kiều làm rất hay.
[23] Nhiều cơn.
[24] Màn có thêu chim loan.
[25] Chỉ vào bà mẹ. Huyên là cây hoa hiên, theo thuyết cổ, có tính chất làm quên sự lo phiền.
[26] Ví với người đẹp, giọt mưa ví với giọt nước mắt.
[27] Nuôi dưỡng và sinh ra, chỉ công ơn cha mẹ.
[28] Điều thấy trong mộng.
[29] Dòng nước mắt. Tương là tên một con sông ở tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc) chảy vào hồ Động Đình. Ngày xưa, vua Thuấn đi tuần thú, chết ở phương xa, hai người vợ vua là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, đến ngồi trên bờ sông Tương, khóc rất thảm thiết, nước mắt vẩy ra những khóm trúc xung quanh, làm cho trúc đó hoá thành những điểm lốm đốm. Về sau, các nhà văn thường dùng chữ mạch Tương, giọt Tương để chỉ nước mắt phụ nữ.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Du » Hồi 03