13-5-1973
Bài thơ này đăng trên Tạp chí
Bách Khoa số ngày 1-6-1973. Cùng trong số này có bài tiễn Hư Chu (1923-1973) của Nguyễn Hiến Lê viết, trong đó có đoạn: “Mùng 8 tháng 2 âm lịch năm Kỉ Dậu, Đông Hồ qui tiên; mùng 8 tháng tư âm lịch năm nay Hư Chu từ trần. Chỉ trong bốn năm hai tháng tôi đã mất hai người bạn thân. Hai vị đó, một Nam một Bắc (Hư Chu quê làng Hành Thiện – Nam Định), tuổi hơn kém nhau xa (Đông Hồ sanh năm 1906), bề ngoài cũng khác nhau xa (Đông Hồ nho nhã mà sang trọng, Hư Chu giản dị mà bình dân) nhưng sinh tiền rất quý mến nhau, vì có vài điểm giống nhau: Cả hai đều sinh trong một gia đình Nho giáo được học ít (về Pháp văn, Hư Chu chỉ tới năm thứ nhì, thứ ba Cao đẳng tiểu học; về Hán văn, chỉ đủ để đọc một cách khó nhọc Liêu trai và Đường thi), mà đều nhờ có tài, nhờ gắng sức, sớm nổi danh trên văn đàn, thi đàn; cả hai lại đều thích văn thơ cổ, văn thơ đều điêu luyện.”
[1] Chiều 26 tháng 4 (năm 1973), Gác Mây đã họp thơ và trong số các thi hữu của Vũ Hoàng Chương có bạn Hư Chu hiện diện. Cùng nhau dạo quanh vườn, Vũ Hoàng Chương đã trở vào một loài hoa trắng, đặt tên cho là “hoa Bạch Vương”, rồi yêu cầu mấy vị ngẫu chiếm một bài Thất ngôn tứ tuyệt, gieo chữ “sương” làm vần. Đây là bài của Hư Chu:
Miếu nguyệt xưa kia hẳn nõn nường
Tìm sang khoe nở trắng vườn sương
Làng Thơ ví cỏ duyên từ trước
Cái mộng đêm nay cũng lạ thường.
[2] Nhan đề một tập tuỳ bút của Hư Chu, ấn hành khoảng 15 năm trước (tính từ năm 1973) tại Sài Gòn.