26/04/2024 07:35Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tặng Chu Tiều Ẩn
贈朱樵隱

Tác giả: Trần Nguyên Đán - 陳元旦

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Trần
Đăng bởi Vanachi vào 03/09/2008 09:16

 

Nguyên tác

黼冕桓圭心已灰,
風霜安敢閉寒梅。
白雲高壘山扉掩,
紫陌多歧我馬隤。
蕙帳勿驚孤鶴怨,
蒲輪好為下民迴。
昌期社稷天方作,
肯使先生老碧隈。

Phiên âm

Phủ miện hoàn khuê[1] tâm dĩ hôi,
Phong sương an cảm bế hàn mai.
Bạch vân cao luỹ sơn phi yểm,
Tử mạch[2] đa kỳ ngã mã đồi,
Huệ trướng vật kinh cô hạc oán[3],
Bồ luân[4] hảo vị hạ dân hồi.
Xương kỳ xã tắc thiên phương tác,
Khẳng sử tiên sinh lão bích ôi.

Dịch nghĩa

Nói chuyện áo gấm mũ thêu và ngọc hoàn khuê lòng đã lạnh như tro,
Gió sương đâu dám giam cầm cây mai lạnh.
Mây trắng chồng cao, cửa non khép kín,
Đường tía nhiều ngả, ngựa ta đã mỏi.
Trong chướng huệ chớ sợ chim hạc cô đơn oán giận,
Bánh xe cỏ bồ hãy vì dân mà quay trở lại.
Xã tắc đương hồi thịnh, trời cũng giúp vì,
Đâu chịu để tiên sinh già đi ở chốn non xanh!

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Gió sương đâu dám cầm mai lạnh,
Áo gấm ngọc hoàn lòng lạnh tro,
Mây trắng chồng cao, cài kín cửa,
Lợi danh nhiều lối, mỏi chân ta.
Cô đơn chim hạc trong màn huệ,
Quay lại vì dân xe cỏ bồ.
Trời giúp sơn hà đương lúc thịnh,
Non xanh đâu chịu để ông già!
Chu Tiều Ẩn tức Chu Văn An, sống cùng thời với tác giả.

[1] Thứ ngọc của vua chư hầu cầm khi vào chầu thiên tử. Ở đây tác giả mượn ý để chỉ người làm quan.
[2] Chỉ những con đường ở kinh đô Trường An. Ở đây chỉ sự tham gia việc nước.
[3] Bài Bắc sơn di văn của Lý Hoa đời Tề có câu “Huệ trướng không hề hạc oán” (Trướng huệ bỏ trống làm cho chim hạc ban đêm oán giận). Ở đây tác giả nói ngược lại, ý khuyên Chu An nên ra giúp nước.
[4] Đời xưa các vua thường lấy cỏ bồ quấn vào bánh xe để đón những người hiền tài, xe đi êm, tỏ ý kính trọng.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Trần Nguyên Đán » Tặng Chu Tiều Ẩn