04/10/2024 21:47Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 14/03/2015 18:18
Nguyên tác
諫官非不達,
詩義早知名。
破的由來事,
先鋒孰敢爭。
思飄雲物外,
律中鬼神驚。
毫髮無遺恨,
波瀾獨老成。
野人甯得所,
天意薄浮生。
多病休儒服,
冥搜信客旌。
築居仙縹緲,
旅食歲崢嶸。
使者求顏闔,
諸公厭禰衡。
將期一諾重,
欻使寸心傾。
君見途窮哭,
宜憂阮步兵。
Phiên âm
Gián quan phi bất đạt,
Thi[1] nghĩa tảo tri danh.
Phá đích do lai sự,
Tiên phong thục cảm tranh.
Tứ phiêu vân vật ngoại,
Luật trúng quỷ thần kinh.
Hào phát vô di hận,
Ba lan độc lão thành.
Dã nhân ninh đắc sở,
Thiên ý bạc phù sinh.
Đa bệnh hưu nho phục,
Minh sưu tín khách tinh.
Trúc cư tiên phiếu diểu,
Lữ thực tuế tranh vanh.
Sứ giả cầu Nhan Hạp[2],
Chư công yếm Nễ Hành[3].
Tương kỳ nhất nặc trọng,
Hốt sử thốn tâm khuynh.
Quân kiến đồ cùng khốc,
Nghi ưu Nguyễn bộ binh[4].Dịch nghĩa
Giữ vai trò của quan can vua không phải là không đạt,
Ý nghĩa của thơ sớm được biết đến tên.
Tìm hiểu đến nguyên do của sự việc,
Đứng đầu ai dám tranh cãi cùng ông.
Ý tứ bay ra khỏi cõi tục luỵ của vạn vật,
Luật thơ đúng khiến quỉ thần cũng nể vì.
Không đề ý đến chi tiết vụn vặt,
Chỉ mình ông đạt đến toàn bích của văn chương.
Người quê mùa làm sao mà đạt đến được như thế,
Theo ý trời, coi thường cuộc sống trôi nổi này.
Vì lắm bệnh nên bỏ cái áo nhà nho,
Lòng cố tìm hiểu nên tin ở bề ngoài của khách.
Nhà ở giống như của vị tiên phiêu lãng,
Ăn nhờ nơi đất khách bao năm tháng lang thang.
Sứ giả tới tìm gặp Nhan Hạp,
Các ông lại ngán ngẩm Nễ Hành.
Một tiếng ừ rất quan trọng cho lần hẹn sau,
Nó khiến cho tấc lòng tôi vợi đi.
Anh thấy cảnh khóc lóc khi lỡ bước đường,
Hệt như nỗi lo của Nguyễn Tịch giữ chức bộ binh.Bản dịch của Phạm Doanh
Gián quan đã đạt rồi,
Tài học tên sớm trỗi.
Nguồn gốc hiểu rạch ròi,
Mũi nhọn ai dám cãi.
Ý tung ngoài cõi người,
Đúng luật, quỷ thần hãi.
Chẳng giận chuyện nhỏ nhoi,
Văn chương ông sáng chói.
Ý trời coi nhẹ đời,
Kẻ quê sao có nổi.
Áo nho bỏ, bệnh nhiều
Tin khách cố theo dõi.
Ở nhà thoáng như tiên,
Ăn nhờ năm chới với.
Nhan Hạp sứ giả tìm,
Nễ Hành các ông đuổi.
Hẹn gặp cốt tiếng ừ,
Bỗng khiến lòng thoải mái.
Lo giống Nguyễn bộ binh.
Anh thấy khóc nghẽn lối.
(Năm 752)
[1] Chỉ Kinh thi.
[2] Thiên Quý sinh 貴 生, sách Lã thị Xuân Thu: Lỗ quân nghe tiếng Nhan Hạp là người lánh đời, đắc đạo, phái sứ giả tới tìm, nhưng Nhan Hạp từ chối.
[3] Tự Chính Bình 正平, một nhân sĩ thời Tam Quốc, có tài biện luận, tính tình cứng rắn ương bướng, khinh khi Tào Tháo 曹操. Tháo tránh tiếng độc ác, bèn nhờ tay Hoàng Tổ 黃祖 giết.
[4] Nguyễn Tịch 阮籍 (210-263), tự Tự Tông 嗣宗, người Trần Lưu, nghe nói trong dinh có nhiều rượu, xin vào đó làm Bộ binh hiệu uý để có rượu uống, nên còn có tên Nguyễn bộ binh.