05/05/2024 08:39Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hoạ trúc ca
畫竹歌

Tác giả: Bạch Cư Dị - 白居易

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Trung Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 04/08/2015 07:26

 

Nguyên tác

植物之中竹難寫,
古今雖畫無似者。
蕭郎下筆獨逼真,
丹青以來唯一人。
人畫竹身肥擁腫,
蕭畫莖瘦節節竦。
人畫竹梢死羸垂,
蕭畫枝活葉葉動。
不根而生從意生,
不筍而成由筆成。
野塘水邊碕岸側,
森森兩叢十五莖。
嬋娟不失筠粉態,
蕭颯盡得風煙情。
舉頭忽看不似畫,
低耳靜聽疑有聲。
西叢七莖勁而健,
省問天竺寺前石上見。
東叢八莖疏且寒,
憶曾湘妃廟裏雨中看。
幽姿遠思少人別,
與君相顧空長嘆。
蕭郎!蕭郎!老可惜,
手顫眼昏頭雪色。
自言便是絕筆時,
從今此竹尤難得!

Phiên âm

Thực vật chi trung trúc nan tả,
Cổ kim tuy hoạ vô tự giả.
Tiêu lang[1] há bút độc bức chân,
Đan thanh dĩ lai duy nhất nhân.
Nhân hoạ trúc thân phì ủng thũng,
Tiêu hoạ hành sấu tiết tiết tủng.
Nhân hoạ trúc tiêu tử nuy thuỳ,
Tiêu hoạ chi hoạt diệp diệp động.
Bất căn nhi sinh tòng ý sinh,
Bất duẩn nhi thành do bút thành.
Dã đường thuỷ biên kỳ ngạn trắc,
Sâm sâm lưỡng tùng thập ngũ hành.
Thuyền quyên bất thất quân phấn thái,
Tiêu táp tận đắc phong yên tình.
Cử đầu hốt khan bất tự hoạ,
Đê nhĩ tĩnh thinh nghi hữu thanh.
Tây tùng thất hành kính nhi kiện,
Tỉnh vấn Thiên Trúc tự[2] tiền thạch thượng kiến.
Đông tùng bát hành sơ thả hàn,
Ức tằng Tương phi[3] miếu lý vũ trung khán.
U tư viễn tứ thiểu nhân biệt,
Dữ quân tương cố không trường thán.
Tiêu lang! Tiêu Lang! Lão khả tích,
Thủ đản nhãn hôn đầu tuyết sắc.
Tự ngôn tiện thị tuyệt bút thì,
Tòng kim thử trúc vưu nan đắc!

Dịch nghĩa

Trong loài thực vật, chỉ có tre là khó vẽ,
Từ xưa tới nay có nhiều người vẽ nhưng không giống.
Chỉ có quan lang Tiêu xuống bút là bắt buộc y như thật,
Nghệ thuật vẽ tre chỉ tới từ một người duy nhất này.
Người ta vẽ thân tre mập mạp trông thật nặng nề,
Tiêu vẽ thân tre mảnh khảnh, đốt tre vươn thẳng.
Người ta vẽ ngọn tre yếu đuối rủ xuống như chết,
Tiêu vẽ cành linh hoạt, lá sống động.
Không vẽ gốc nhưng sức sống toát từ ý chí,
Không từ măng lớn lên nhưng hình thành do nét bút.
Trông nghiêng ven nước một bờ đê miền quê,
Có hai khóm tre rậm rạp gồm mười lăm cây.
Nom như những người đẹp không quên điểm trang phấn tre,
Buồn bã chịu đựng gió lay và sương khói.
Ngửng đầu thoạt nhìn không tin là tranh vẽ,
Ghé tai lắng nghe ngờ như có tiếng gió thổi.
Khóm bảy cây ở phía tây thấy cứng cỏi, mạnh mẽ,
Tự hỏi đã thấy trong kẽ đá chùa Thiên Trúc.
Khóm tám cây bên phía đông mọc rải rác, dáng rét mướt,
Gợi nhớ như đã thấy tre Tương bên miếu hai bà trong mưa.
Dáng tre xinh đẹp nơi u tịch, ý tre cao xa, ít người nhận ra,
Ngẫm nghĩ về ông, ta chỉ có những lời tán thán suông này.
Quan lang Tiêu! Hỡi quan lang Tiêu! Thật tiếc ông đã già,
Tay đã run, mắt đã mờ, tóc mang màu tuyết.
Tranh ông vẽ tự nói lên rằng bút lực của ông tuyệt vời,
Từ nay bức tranh tre này sẽ là đồ hiếm quý khó có.

Bản dịch của Nguyễn Minh

Trong loại cây, tre khó vẽ thay,
Bao nhiêu người vẽ, giống chi này.
Chỉ Tiêu lang hoạ là như thật,
Duy nhất một người múa bút hay.
Họ vẽ thân tre dày dặn mập,
Tre Tiêu mảnh khảnh, đốt cao ngay.
Họ cho nhánh yếu mềm như chết,
Tiêu hoạ cành linh hoạt lả lơi.
Không gốc mà nguồn sống tốt tươi,
Không măng, nhưng bút tả chân tài.
Nghiêng ven nước một bờ đê ruộng,
Hai khóm rậm mười lăm ngọn cây.
Người đẹp ấy không quên điểm phấn,
Thầm buồn, chịu đựng gió sương lay.
Ngẩng đầu nhìn chẳng tin tranh hoạ,
Tai lắng nghe, dường tiếng gió may.
Khóm bảy cây đàng tây cứng cỏi,
Nơi chùa Thiên Trúc, khe đá gặp rồi thay?
Tám cây đông dáng lạnh lùng khác,
Nhớ trúc Tương phi se mưa gió ngậm ngùi.
Dáng đẹp, tâm cao ai mấy hiểu,
Nghĩ về ông tán thán suông thôi.
Tiêu lang hỡi! tiếc ông già lão,
Mờ mắt, run tay tóc tuyết phai.
Thật tuyệt khí thần ông lúc ấy,
Hẳn thành báu vật bức tranh đây.
Tác giả làm bài này trong khoảng từ năm 822 dến 824, trong thời gian ông làm thứ sử Hàng Châu (nay trong tỉnh Chiết Giang).

[1] Tức Tiêu Duyệt, người Lan Lăng (nay trong huyện Phong, tỉnh Sơn Đông), giữ chức Hiệp luật lang (phụ trách âm nhạc) trong triều nhưng có lúc tạm trú Hàng Châu. Tiêu có biệt tài vẽ trúc, tặng tác giả một bức tranh gồm 15 cây trúc, được tác giả cảm tạ bằng bài thơ này.
[2] Chùa trên núi Thiên Trúc, nay trong thành phố Hàng Châu.
[3] Tương truyền khi vua Thuấn (thời thượng cổ) đi tuần thú phương nam, bệnh chết, xác chôn trên núi Thương Ngô. Hai bà vợ đi thăm mộ chồng, tới khúc sông Tương nói trên thì cũng mất, được dân địa phương chôn cất và lập miếu thờ. Tre gần miếu có những vệt nước mắt, là do hai bà khóc chồng vậy.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Bạch Cư Dị » Hoạ trúc ca