26/04/2024 23:55Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Ngẫu đề
偶題

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi hongha83 vào 27/01/2010 20:23

 

Nguyên tác

文章千古事,
得失寸心知。
作者皆殊列,
名聲豈浪垂。
騷人嗟不見,
漢道盛於斯。
前輩飛騰入,
餘波綺麗為。
後賢兼舊列,
歷代各清規。
法自儒家有,
心從弱歲疲。
永懷江左逸,
多病鄴中奇。
騄驥皆良馬,
騏驎帶好兒。
車輪徒已斫,
堂構惜仍虧。
漫作潛夫論,
虛傳幼婦碑。
緣情慰漂蕩,
抱疾屢遷移。
經濟慚長策,
飛棲假一枝。
塵沙傍蜂蠆,
江峽繞蛟螭。
蕭瑟唐虞遠,
聯翩楚漢危。
聖朝兼盜賊,
異俗更喧卑。
鬱鬱星辰劍,
蒼蒼雲雨池。
兩都開幕府,
萬宇插軍麾。
南海殘銅柱,
東風避月支。
音書恨烏鵲,
號怒怪熊羆。
稼穡分詩興,
柴荊學土宜。
故山迷白閣,
秋水隱黃陂。
不敢要佳句,
愁來賦別離。

Phiên âm

Văn chương thiên cổ sự,
Đắc thất thốn tâm tri.[1]
Tác giả giai thù liệt,
Danh thanh khởi lãng thuỳ.
Tao nhân ta bất kiến,
Hán đạo thịnh ư tư.
Tiền bối phi đằng nhập,
Dư ba ỷ lệ vi.
Hậu hiền kiêm cựu liệt,
Lịch đại các thanh quy.
Pháp tự nho gia hữu,
Tâm tòng nhược tuế bì.
Vĩnh hoài Giang Tả dật,
Đa bệnh Nghiệp Trung kỳ.
Lục, ký giai lương mã,
Kỳ lân đới hảo nhi.
Xa luân đồ dĩ chước,
Đường cấu tích nhưng khuy.
Mạn tác “Tiềm phu luận[2]”,
Hư truyền ấu phụ bi[3].
Duyên tình uý phiêu đãng,
Bão tật lũ thiên di.
Kinh tế tàm trường sách,
Phi thê giá nhất chi[4].
Trần sa bàng phong mại,
Giang giáp nhiễu giao ly.
Tiêu sắt Đường Ngu[5] viễn,
Liên phiên Sở, Hán nguy.
Thánh triều kiêm đạo tặc,
Dị tục cánh huyên ty.
Uất uất tinh thần kiếm,
Thương thương vân vũ trì.
Lưỡng đô khai mạc phủ,
Vạn vũ tháp quân huy.
Nam Hải tàn đồng trụ[6],
Đông phong tỵ Nhục Chi.
Âm thư hận ô thước,
Hào nộ quái hùng bi.
Giá sắc phân thi hứng,
Sài kinh học thổ nghi.
Cố sơn mê Bạch Các[7],
Thu thuỷ ẩn Hoàng Bi[8].
Bất cảm yêu giai cú,
Sầu lai phú biệt ly.

Dịch nghĩa

Văn chương là chuyện thuộc ngàn đời,
Thành công hay thất bại là chỉ có tấc lòng biết thôi.
Mỗi người viết một cách,
Tiếng tăm đâu phải nơi ngọn sóng mà tới.
Bậc tao nhã tiếc rằng không được gặp,
Đời Hán rất thịnh về điểm này.
Những người thời trước bay nhảy mà tới,
Vẻ đẹp còn truyền lại như sóng lan.
Người đời sau cứ theo phép cũ,
Nhưng qua thời gian hoàn thành quy luật mới.
Phép tắc là do nhà nho đặt ra,
Lòng theo qua nhiều năm mệt lừ.
Nương náu nơi ven sông thường nói lên nỗi lòng,
Lắm bệnh nhưng trong công việc có lắm cái lạ.
Lộc, ký đều là giống ngựa tốt,
Kỳ lân giữ đúng con nòi.
Bánh xe đã từng đẽo gọt,
Mà con cháu nối theo mãi chưa được.
Viết bừa bài bàn về kẻ náu mình (trùm chăn),
Truyền ẩu về bài văn bia bà trẻ.
Theo tình thì sợ lông bông,
Mà giữ cái lối cũ lại ngại thay đổi.
Giúp đời thì thẹn về sách lược lâu dài,
Bay lên đậu ở một cành.
Trong đám cát bụi gần với ong nọc,
Và nơi sông ngòi thuồng luồng rình rập.
Rầu rĩ vì quá xa vời thời Đường, Ngu,
Rối beng giống như thời Hán Sở.
Đời thánh lại kèm theo cả đạo tặc,
Các tục khác nhau cứ rối beng lên.
Rờ rỡ gươm thiêng át cả ánh sao,
Mờ mờ ao đầy mây mưa (có rồng ẩn).
Hai kinh đều lập dinh trại,
Các nơi cờ hồng phất phới.
Phía biển nam, cột đồng bị gãy,
Gió đông tránh giặc Nhục Chi.
Thư tín mãi không có nên giận chim thước,
Giống hùm beo cứ gào thét hoài.
Tôi tìm được hứng thơ trong việc trồng gặt,
Nơi thôn quê sống phù hợp với khung cảnh đó.
Núi cũ không phân biệt được Bạch Các,
Sông thu thấp thoáng bóng Hoàng Bi.
Không dám chau chuốt từng câu,
Vì cơn buồn tới nên nói đến cảnh biệt ly thế thôi.

Bản dịch của Phan Ngọc

Văn chương là chuyện ngàn xưa
Dù hay dù dở lòng ta hỏi lòng
Kẻ sáng tác chẳng cùng một loại
Tiếng tăm truyền còn lại khác nhau
Bậc tao nhân làm sao thấy lại
Thơ Hán còn thịnh mãi tới nay
Người xưa thi tứ cao bay
Sóng thừa tươi đẹp nay ta giữ gìn
Người hiền sau quen kiêm phép cũ
Các đời xưa quy chế đều hay
Nho gia phép tắc đã bày
Từ khi tuổi nhỏ miệt mài bao năm
Tứ siêu dật mải ham Giang Tả
Thơ Nguỵ triều thích lạ không say
Đều là ngựa quý xưa nay
Toàn hạng tài giỏi sánh tài kỳ lân
Đẽo trục xe khó khăn hết mực
Mấy ai làm cho được vẹn toàn
Thơ ta viết, cách ta làm
Đâu mong nghĩ chuyện thế gian lưu truyền
Để an ủi nỗi buồn trôi dạt
Lang thang hoài, bệnh tật nhọc lòng
Kế cứu nước thẹn mình không
Một cành nương náu chỉ mong qua ngày
Cát bụi bay một trời giặc giã
Bên hẻm sông bạn có thuồng luồng
Thuấn, Nghiêu đâu dám chờ trông
Sở, Hán tai ách vẫn thường gặp luôn
Triều thánh lẫn với quân đạo tặc
Sống thấp hèn, tục khác cũng đành
Kiếm thần khí bốc mây xanh
Giao long ủ rũ nương mình trong ao
Hai kinh đô giờ sao quân đóng
Vạn ngõ chờ chỉ bóng cờ bay
Cột đồng Nam Hải lắt lay
Nhục Chi lẩn tránh những ngày gió đông
Giận chim thước thư không mang lại
Lạ thay nghe gấu sói gào la
Cấy cày xen với thi ca
Cửa sài học việc nông gia vẫn làm
Nơi núi cũ mơ tìm Bạch Các
Nhìn nước thu những tiếc Hoàng Pha
Thơ đẹp hay chẳng dám mơ
Buồn sang ngâm khúc biệt ly giải buồn
Bài này được sáng tác năm Đại Lịch thứ 2 (767) tại thảo đường ở Thành Đô.


[1, 4] Tào Phi 曹丕 trong Điển luận 典論 viết: “Văn chương kinh quốc chi đại nghiệp, bất hủ chi thịnh sự” 文章經國之大業,不朽之盛事 (Văn chương là đại nghiệp kinh quốc, bất hủ muôn đời). Tào Thực 曹植: “Văn chương giai ác, ngã tự tri chi” 文章佳惡,我自知之 (Văn chương tốt xấu, lòng ta tự biết rõ).
[2] Tên sách của Vương Phù đời Hán nói lên cảm nghĩ của người không ở trong chính quyền, bàn về thời thế.
[3] Câu chuyện giữa Tào Tháo và Dương Tu thời Tam Quốc. Tào Tháo khi tới Giang Nam, đọc bài văn bia trên mộ Tào Nga 曹娥, bèn ghi vào mặt sau bia tám chữ “Hoàng quyên ấu phụ, ngoại tôn toán cữu” 黃絹幼婦,外孫齏臼. Dương Tu giải nghĩa theo cách ghép chữ và nghĩa: hoàng (màu vàng) quyên (lụa) = ty 糸 + sắc 色 = tuyệt 絕, ấu phụ = thiếu 少 + nữ 女 = diệu 妙, ngoại tôn (cháu ngoại, do con gái mình sinh ra) = nữ 女+ tử 子 = hảo 好, toán cữu (cối dã tỏi, tức vật chịu cay) = thụ 受 (chịu) + tân 辛 (cay) = từ 辭 (lời), gộp lại là “tuyệt diệu hảo từ”, có ý khen ngợi bài văn bia là bài văn rất hay.
[1, 4] Chữ mượn từ Nam Hoa kinh, thiên Tiêu dao du: “Tiêu liêu sào ư thâm lâm, bất quá nhất chi” 鷦鷯巢於深林,不過一枝 (Chim tiêu liêu làm tổ trong rừng sâu, một cành cũng là quá đủ).
[5] Thời thái bình thịnh trị lý tưởng trong huyền sử Trung Quốc.
[6] Mất chủ quyền cai trị phương nam.
[7] Một chỏm của núi Chung Nam.
[8] Một huyện thuộc Hồ Bắc.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Ngẫu đề