10/10/2024 23:44Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Trung đại
Đăng bởi Vanachi vào 07/11/2015 09:32
Nguyên tác
金牛潛伏處,
鎮國聳然開。
一自浮雲改,
仙舟不復迴。
湖光依舊在,
客思正悠哉。
日暮樓鐘動,
長歌歸去來。
Phiên âm
Kim ngưu[1] tiềm phục xứ,
Trấn Quốc tủng nhiên khai.
Nhất tự phù vân cải,
Tiên chu bất phục hồi[2].
Hồ quang y cựu tại,
Khách tư chính du tai.
Nhật mộ lâu chung động,
Trường ca “Quy khứ lai[3]”.Dịch nghĩa
Chốn xưa trâu vàng ẩn mình,
Nơi ấy chùa Trấn Quốc mọc lên.
Mọi cảnh vật như mây nổi cứ đổi thay,
Thuyền tiên chẳng quay về.
Sắc hồ vẫn như xưa,
Lòng khách thật man mác thay.
Chiều về chuông trên lầu ngân tiếng,
Hát mãi bài “Quy khứ lai”.Bản dịch của Trịnh Khắc Mạnh
Nơi trâu vàng ẩn náu,
Trấn Quốc mọc chùa này.
Mây nổi cứ đổi thay,
Thuyền tiên không thấy lại.
Ánh hồ còn như cũ,
Lòng khách man mác hoài.
Chiều hôm chuông gác vọng,
Hát mãi “Quy khứ lai”.
Bài thơ này chép trong Tạp ký 雜記 (ký hiệu A.1716, chưa rõ người soạn và niên đại).
[1] Tương truyền xưa, tinh Trâu vàng từ núi Lạn Kha bị Cao Biền làm phép yểm long mạch, chạy vào ẩn trong hồ.
[2] Chỉ tích chúa Liễu Hạnh hiển linh ở Hồ Tây cùng Phùng Khắc Khoan và hai người bạn văn chương họ Ngô, họ Lý của ông đối ẩm thưởng trăng, ngâm thơ.
[3] Bài văn nổi tiếng của Đào Uyên Minh (tức Đào Tiềm) người Trung Quốc đời Tấn, viết năm 405 khi ông 40 tuổi, từ quan trở về với ruộng vườn.