28/04/2024 05:12Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Phụng tặng Nguỵ lục trượng hữu thiếu phủ chi Giao Quảng
奉送魏六丈佑少府之交廣

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 13/03/2015 00:37

 

Nguyên tác

賢豪贊經綸,
功成空名垂。
子孫不振耀,
歷代皆有之。
鄭公四葉孫,
長大常苦饑。
眾中見毛骨,
猶是麒麟兒。
磊落貞觀事,
致君樸直詞。
家聲蓋六合,
行色何其微。
遇我蒼梧陰,
忽驚會面稀。
議論有餘地,
公侯來未遲。
虛思黃金貴,
自笑青雲期。
長卿久病渴,
武帝元同時。
季子黑貂敝,
得無妻嫂欺。
尚為諸侯客,
獨屈州縣卑。
南遊炎海甸,
浩蕩從此辭。
窮途仗神道,
世亂輕土宜。
解帆歲雲暮,
可與春風歸。
出入朱門家,
華屋刻蛟螭。
玉食亞王者,
樂張遊子悲。
侍婢豔傾城,
綃綺輕霧霏。
掌中琥珀鐘,
行酒雙逶迤。
新歡繼明燭,
梁棟星辰飛。
兩情顧盼合,
珠碧贈於斯。
上貴見肝膽,
下貴不相疑。
心事披寫間,
氣酣達所為。
錯揮鐵如意,
莫避珊瑚枝。
始兼逸邁興,
終慎賓主儀。
戎馬暗天宇,
嗚呼生別離。

Phiên âm

Hiền hào tán kinh luân,
Công thành không danh thuỳ.
Tử tôn bất chấn diệu,
Lịch đại giai hữu chi.
Trịnh công[1] tứ diệp tôn,
Trường đại thường khổ ky.
Chúng trung kiến mao cốt,
Do thị kỳ lân nhi.
Thác lạc Trinh Quán sự,
Trí quân phác trực từ.
Gia thanh cái lục hợp[2],
Hành sắc hà kỳ vi.
Ngộ ngã Thương Ngô âm,
Hốt kinh hội diện hi.
Nghị luận hữu dư địa,
Công hầu lai vị trì.
Hư tứ hoàng kim quý,
Tự tiếu thanh vân kỳ.
Trường Khanh[3] cửu bệnh khát,
Vũ Đế nguyên đồng thì.
Quý tử hắc điêu tệ,
Đắc vô thê tẩu khi[4].
Thượng vi chư hầu khách,
Độc khuất châu huyện ti.
Nam du viêm hải điến,
Hạo đãng tòng thử tì.
Cùng đồ trượng thần đạo,
Thế loạn khinh thổ nghi.
Giải phàm tuế vân mộ,
Khả dữ xuân phong quy.
Xuất nhập chu môn gia,
Hoa ốc khắc giao ly.
Ngọc thực á vương giả,
Nhạc trương du tử bi.
Thị tì diễm khuynh thành,
Tiêu ỷ khinh vụ phi.
Chưởng trung hổ phách chung,
Hành tửu song uy di.
Tân hoan kế minh chúc,
Lương đống tinh thần phi.
Lưỡng tình cố phấn hợp,
Chu bích tặng ư ti.
Thượng quý kiến can đảm,
Hạ quí bất tương nghi.
Tâm sự bài tả gián,
Khí hàm đạt sở vi.
Thố huy thiết như ý[5],
Mạc tị san hô chi[6].
Thuỷ kiên dật vạn hứng,
Chung thận tân chủ nghi.
Nhung mã ám thiên vũ,
Ô hô sinh biệt ly.

Dịch nghĩa

Một người hiền hào làm nhiều công việc như thế,
Thành công mà tên không được nói đến.
Con cháu không nối chí cha ông được,
Qua nhiều thời đều có như thế.
Bốn đời sau của ông được phong tước Trịnh quốc công,
Lớn lên đều đói khổ.
Trong đám đông thấy rõ dáng vóc,
Biết ngay đó là con nhà dòng dõi.
Ông mất trong năm Trinh Quán khi còn làm việc,
Giúp vua bằng những lời nói thẳng.
Tiếng tăm gia đình nổi lên trong sáu cõi,
Mà sao tăm hơi im lìm như thế.
Gặp tôi tại phía nam Thương Ngô,
Bỗng ngạc nhiên vì ít khi gặp.
Nghị luận có thừa bản lĩnh,
Chức tước đạt được cũng chưa muộn.
Chẳng để ý gì đến cái mà người đời ưa thích là vàng bạc,
Chỉ cười gằn mà hẹn cùng mây xanh.
Trường Khanh đã bị bệnh tiết niệu lâu rồi,
Kể ra là cùng thời với Hán Vũ Đế.
Người con trai út mặc áo cừu đen rách.
Nhưng không bị mụ vợ khinh khi.
Đáng ra là khách của các vua chư hầu,
Mà sao lại khuất bóng dưới châu huyện nhỏ như thế.
Đi về miền nam quê mùa có bể ấm,
Vì phóng túng nên từ khi đó bỏ chức.
Cùng dường nên chỉ trông vào mệnh trời,
Đời loạn coi thường điều kiện nơi sinh sống.
Giương buồm trong mây vào lúc cuối năm,
Lẽ ra có thể cùng với gió xuân đi về.
Ra vào cửa nhà quyền quý,
Phòng đẹp có khắc rồng rắn.
Ăn đồ ngon gần được như bậc vua chúa,
Bày nhạc ra chỉ làm kẻ xa nhà buồn.
Các cô hầu có sắc đẹp nghiêng thành,
Mặc lụa là mềm mại như mây mù.
Trong tay có nhạc khí bằng hổ phách,
Uốn éo đưa rượu mời khách.
Cuộc vui mới tiếp đốt thêm đuốc,
Trên xà nhà tưởng như có sao sa.
Hai bên sóng mắt đưa tình thấy rất hợp,
Ngọc xanh đỏ đem tặng là lúc này đây.
Kẻ trên, quý ở chỗ thấy gan mật,
Kẻ dưới, quý ở chỗ đừng có ngờ nhau.
Nỗi lòng được giãi tỏ,
Lúc vui chén đạt được điều muốn làm.
Lỡ vung thiết như ý,
Chớ tránh cành san hô.
Lúc đầu nên nén vạn cái khoái,
Cuối cùng nên theo phép tắc chủ - khách.
Loạn lạc làm mờ cả bầu trời,
Than ôi sống mà phải xa cách.

Bản dịch của Phạm Doanh

Ông tài giỏi lo làm nhiều cái,
Công thì thành danh lại im hơi.
Cháu con chẳng thấy thảnh thơi,
Xưa nay đều thế, có đời nào không.
Cháu bốn đời Trịnh công, là đó.
Lớn lên thường đói khổ dài dài.
Người đời thấy dáng bên ngoài,
Biết ngay là đúng giống nòi kỳ lân.
Ngài mất đi vào năm Trinh Quán,
Cố giúp vua, thẳng thắn trình bày.
Tiếng nhà đời vẻ vang thay,
Cuộc đời, thân thế đắng cay vậy mà.
Gặp tôi, nam Thương Ngô bữa trước,
Bỗng kinh hoàng, may được thấy nhau.
Bàn luận thừa sức làu làu,
Mà sao chậm chạp công hầu thế ru!
Vàng bạc quí thường lờ chẳng thiết,
Vẫn tươi cười hẹn kết mây xanh.
Bệnh tiểu đường giống Trường Khanh.
So với Vũ Đế kể sinh cùng triều.
Đứa con út áo điêu rách nát.
Mà vợ kia có nạt nộ đâu.
Lẽ ra là khách chư hầu,
Đem thân nép dưới huyện châu thấp hèn.
Xuống phía nam tới miền biển nóng,
Kể từ đây phóng khoáng thảnh thơi.
Đường cùng thần đạo xin noi,
Đời loạn coi nhẹ thổ ngơi quê người.
Cuối năm mảnh buồm khơi giương đó,
Sẽ nương nhờ sức gió đưa ngang.
Tới lui nguyên những cửa sang,
Mái đẹp trạm phượng trổ rồng đầy nơi.
Giống vua chúa, thường xơi hạt ngọc,
Khiến khách buồn vì nhạc du dương.
Người hầu nhan sắc dễ thương,
Lụa là mỏng nhẹ tưởng chừng khói bay.
Đàn hổ phách trên tay nhẹ đỡ,
Đưa rượu mời dáng lả người lơi.
Thêm đuốc bữa tiệc kéo dài,
Cột rường nhà tưởng sao trời bay bay.
Cả hai bên lấp lay mắt liếc,
Tặng ngọc hồng chính lúc này đây.
Trên, quý thấy ruột gan bày,
Dưới, quý đối xử thật ngay, chớ ngờ.
Nỗi lòng đã bày phô ra đó,
Nhờ hơi men tỏ rõ hành vi.
Nếu nhỡ tay đã vung chuỳ,
Cành san hô chớ việc gì né mau.
Vạn hứng lúc mới đầu nên giữ,
Vào cuối thì khách chủ rạch ròi.
Loạn ly mù mịt khắp trời,
Sống mà chia cách, than ôi đau buồn.
(Năm 769)

[1] Trịnh quốc công Nguỵ Trưng 魏徵 (580-643), tự Huyền Thành 玄成, người Khúc Thành (Dịch huyện, Sơn Đông). Thời Đường Thái Tông giữ chức gián nghị đại phu, kiểm hiệu thị lang và sau cùng là quang lộc đại phu, tước phong Trịnh quốc công. Ông có tham gia việc biên soạn sử thời Tuỳ. Qua đời khi còn làm việc. Tên thuỵ là Văn Trinh 文貞.
[2] Đông, tây, nam, bắc, trời, đất.
[3] Tư Mã Tương Như.
[4] Tô Tần thời Chiến Quốc khi chưa thành danh, về nhà bị vợ khinh rẻ.
[5] Một loại vũ khí hình giống như cái chuỳ, còn có tên Hán Việt là "cốt đoá" 骨朶.
[6] Tặng phẩm quý giá.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Phụng tặng Nguỵ lục trượng hữu thiếu phủ chi Giao Quảng