26/04/2024 18:36Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hàm Đan hoài cổ
邯鄲懷古

Tác giả: Nguyễn Công Hãng - 阮公沆

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi hongha83 vào 12/01/2010 18:31

 

Nguyên tác

趙國山河草木荒,
鷓鴣啼曉雁鳴霜。
叢臺歷歷惟流水,
甘塚纍纍只夕陽。
古嶺漫傳浮紫氣,
仙蹤虛道覓黃粱。
燈前細說興亡事,
惆悵那堪旅思傷。

Phiên âm

Triệu[1] quốc sơn hà thảo mộc hoang,
Giá cô[2] đề hiểu nhạn minh sương.
Tùng đài[3] lịch lịch duy lưu thuỷ,
Cam Trủng[4] luy luy chỉ tịch dương.
Cổ lĩnh mạn truyền phù tử khí,
Tiên tung hư đạo mịch hoàng lương[5].
Đăng tiền tế thuyết hưng vong sự,
Trù trướng na kham lữ tứ thương.

Dịch nghĩa

Non sông nước Triệu cây cỏ đã mọc hoang
Giá cô gáy sớm nhạn kêu sương
Dãy Tùng đài san sát trơ dòng nước chảy
Bãi Cam Trủng liên miên chỉ bóng chiều tà
Nơi núi cổ đồn nhảm rằng có khí tía bốc lên
Chỗ dấu tiên nói bịa ra câu chuyện kê vàng
Dưới đèn tỉ mỉ kể chuyện hưng vong ngày trước
Dạ khách khôn ngăn nỗi bùi ngùi vấn vương

Bản dịch của Đỗ Ngọc Toại

Sông núi Hàm Đan cỏ mọc hoang
Giá cô gào sớm nhạn kêu sương
Lâu đài san sát trơ dòng nước
Phần mộ liên miên dãi bóng dương
Núi cổ nào đâu làn khí tía
Dấu tiên khéo bịa chuyện kê vàng
Trước đèn kể chuyện hưng vong cũ
Dạ khách khôn cầm nỗi vấn vương
Hàm Đan là kinh đô của nước Triệu đời xưa, nay là một huyện thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.

[1] Một nước thời Chiến Quốc.
[2] Tên một giống chim đỗ thành bầy, bay đôi kêu về buổi sớm. Truyền thuyết Trung Quốc nói tiếng chim kêu nghe như “Anh ơi, không đi được đâu”.
[3] Một dãy lâu đài liền nhau của vua Triệu dựng lên.
[4] Tên bãi để chôn các vua nước Triệu.
[5] Tức “giấc mộng kê vàng”. Lư sinh, một người học trò nghèo lang thang ở Hàm Đan. Một hôm, được một đạo sĩ cho mượn cái gối, Lư nằm ngủ mê, thấy mình hiển đạt, rất lấy làm đắc ý. Khi tỉnh dậy mới biết là mộng, nồi kê vàng của nhà nấu lúc chàng đi ngủ vẫn chưa chín.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Công Hãng » Hàm Đan hoài cổ