24/04/2024 14:23Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Yên đài thi - Thu
燕臺詩-秋

Tác giả: Lý Thương Ẩn - 李商隱

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Vãn Đường
Đăng bởi Diệp Y Như vào 31/03/2010 07:40

 

Nguyên tác

月浪衡天天宇濕,
涼蟾落盡疎星入。
雲屏不動掩孤嚬,
西樓一夜風箏急。
欲織相思花寄遠,
終日相思卻相怨。
但聞北斗聲迴環,
不見長河水清淺!
金魚鎖斷紅桂春,
古時塵滿鴛鴦茵。
堪悲小苑作長道,
玉樹未憐亡國人。
瑤琴愔愔藏楚弄,
越羅冷薄金泥重。
簾鉤鸚鵡夜驚霜,
喚起南雲繞雲夣。
雙璫丁丁聯尺素,
內記湘川相識處。
歌脣一世銜雨看,
可惜馨香手中故!

Phiên âm

Nguyệt lãng xung thiên thiên vũ thấp,
Lương thiềm[1] lạc tận sơ tinh nhập.
Vân bình bất động yểm cô tần.
Tây lâu nhất dạ phong tranh cấp.
Dục chức tương tư hoa ký viễn,
Chung nhật tương tư khước tương oán[2].
Đãn văn Bắc Đẩu thanh hồi hoàn[3],
Bất kiến trường hà thuỷ thanh thiển[4].
Kim ngư[5] toả đoạn hồng quế[6] xuân,
Cổ thì trần mãn uyên ương khuân.
Kham bi tiểu uyển tác trường đạo,
Ngọc thụ[7] vị liên vong quốc nhân[8].
Dao cầm âm âm tàng lộng Sở,
Việt la lãnh bạc kim nê trọng.
Liêm câu anh vũ dạ kinh sương,
Hoán khởi nam vân[9] nhiễu Vân Mộng[10].
Song đang đinh đinh liên xích tố,
Nội ký Tương xuyên tương thức xứ.
Ca thần nhất thế hàm vũ[11] khan,
Khả tích hinh hương thủ trung cố.

Dịch nghĩa

Sóng trăng vọt lên trời làm cả bầu trời như thấm ướt,
Trăng lạnh đã lặn, sao thưa lọt vào phòng.
Bình phong bằng đá vân mẫu che nỗi quạnh hiu của thiếp,
Bên lầu tây cả đêm gió thổi, tiếng khánh gió vang rộn ràng.
Muốn dệt nỗi tương tư gởi cho người yêu nơi xa,
Suốt ngày ngồi tương tư lại chuyển thành nỗi hận.
Chỉ nghe tiếng sao bắc đẩu xoay vần,
Mà không thấy nước sông Ngân cạn và trong.
Ổ khoá cá vàng nhốt tuổi thanh xuân,
Chăn uyên ương xưa, giờ bám đầy bụi bặm.
Buồn thay, mảnh vườn nhỏ mà ngỡ như con đường dài,
Khúc ca Ngọc thụ chưa từng thương người mất nước.
Đàn dao ngân vang vui tươi nhưng ngầm chứa điệu buồn nước Sở,
Mặc chiếc áo lụa mỏng nước Việt mà thấy nặng như vàng.
Bên rèm con vẹt sợ sương kêu lên trong đêm,
Gọi thức chòm mây phương nam vần vũ trên đầm Vân Mộng.
Đôi bông tai và tờ thư còn để đó,
Trong đó viết chuyện ta gặp gỡ quen nhau ở sông Tương.
Môi xinh ngậm lệ, một đời trông ngóng,
Tiếc thay làn hương cứ nhạt nhoà tan trong bàn tay.

Bản dịch của Lê Quang Trường

Trời thấm đẫm sóng trăng lóng lánh,
Sao vào phòng, nguyệt lạnh tàn rơi.
Rèm mây che nỗi đơn côi,
Cả đêm gió nổi tây lầu phiền ưu.
Dệt nhớ nhung gởi người viễn xứ,
Nhớ dệt xong hận cứ đầy vơi.
Chỉ nghe bắc đẩu chuyển dời,
Mà nào thấy nước sông trời cạn trong?
Thời son trẻ khoá vàng nhốt kín,
Chăn uyên ương mù mịt bụi trần.
Vườn con buồn tưởng quan san,
Khúc ca Ngọc thụ chẳng màng người xưa.
Đàn thánh thót vẳng đưa khúc Sở,
Áo lụa đơn đất Việt nặng vàng.
Bên rèm anh vũ kinh sương,
Mây nam Vân Mộng còn vương vấn lời.
Đôi khoen ngọc tờ thư vẫn giữ,
Chứng nhân ngày gặp gỡ sông Tương.
Một đời ngậm lệ xót thương,
Trong tay nhoà nhạt làn hương hôm nào.
Bài thơ tả mối tình tương tư, oán giận của cô gái trong đêm thu không ngủ được.

[1] Trăng thu. Theo truyền thuyết, trong trăng có con thiềm thừ (con cóc) nên người ta gọi trăng là thiềm.
[2] Hai câu thơ này có ý vị của bài thơ Trường tương tư của Bạch Cư Dị: “Tứ du du, hận du du, hận đáo quy thời phương thuỷ hưu” (Dằng dặc nhớ, dằng dặc hờn, hận đến khi người trở về mới thôi).
[3] Nghe tiếng Bắc Đẩu xoay chuyển. Ý nói thời tiết đang chuyển mùa. Thơ Đồng chư công đăng Từ Ân tự tháp của Đỗ Phủ có câu: “Thất tinh tại bắc bộ, Hà Hán thanh tây lưu” (Bảy ngôi sao ở cửa bắc, tiếng nước sông Hán chảy về phía tây).
[4] Nước sông Ngân cạn và trong, là lúc Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau.
[5] Tức là ổ khoá vàng.
[6] Cây quế đỏ, hoa trắng nhuỵ vàng. Ở đây cô gái mượn hình ảnh ấy để tự xưng.
[7] Tức khúc Ngọc thụ hậu đình hoa của Trần Thúc Bảo, vua của nhà Trần thời Nam triều, vì hoang dâm mê sắc mà mất nước. Ông soạn bài ca này để người đẹp sủng phi của ông múa hát.
[8] Người mất nước, chỉ sủng phi của Trần hậu chủ là Trương Lệ Hoa.
[9] Mây phía nam. Thơ Cửu mẫn của Lục Vân có câu: “Quyến nam vân dĩ ứng bi” (Nhìn mây phương nam mà vui buồn).
[10] Tức đầm Vân Mộng, nước Sở.
[11] Ngậm lệ.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Lý Thương Ẩn » Yên đài thi - Thu