26/04/2024 14:30Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Mạch thượng tang
陌上桑

Tác giả: Khuyết danh Trung Quốc

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Hán
Đăng bởi Vanachi vào 01/11/2008 11:10

 

Nguyên tác

日出東南隅,
照我秦氏樓。
秦氏有好女,
自名為羅敷。
羅敷喜蠶桑,
采桑城南隅。
青絲為籠係,
桂枝為籠鉤。
頭上倭墮髻,
耳中明月珠。
緗綺為下裙,
紫綺為上襦。
行者見羅敷,
下擔捋髭鬚。
少年見羅敷,
脫帽著帩頭。
耕者忘其鋤,
鋤者忘其鋤。
來歸相怒怨,
但坐觀羅敷。

使君從南來,
五馬立踟躕。
使君遣吏往,
問「是誰家姝?」
「秦氏有好女,
自名為羅敷。」
「羅敷年幾何?」
「二十尚不足,
十五頗有餘。」
使君謝羅敷:
「寧可共載不?」
羅敷前置辭:
「使君一何愚!
使君自有婦,
羅敷自有夫。」

「東方千餘騎,
夫婿居上頭。
何用識夫婿?
白馬從驪駒。
青絲繫馬尾,
黃金絡馬頭。
腰中鹿盧劍,
可值千萬餘。
十五府小史,
二十朝大夫,
三十侍中郎,
四十專城居。
為人潔白皙,
鬑鬑頗有須。
盈盈公府步,
冉冉府中趨。
坐中數千人,
皆言夫婿殊。」

Phiên âm

Nhật xuất đông nam ngung[1],
Chiếu ngã Tần thị lâu.
Tần thị hữu hảo nữ,
Tự danh vi La Phu[2].
La Phu hỉ tàm tang,
Thái tang thành nam ngung.
Thanh ty vi lung hệ,
Quế chi vi lung câu.
Đầu thượng oa đoạ kết[3],
Nhĩ trung minh nguyệt châu[4].
Tương ỷ vi hạ quần,
Tử ỷ vi thượng nhu.
Hành giả kiến La Phu,
Hạ đảm loát tỳ tu.
Thiếu niên kiến La Phu,
Thoát mạo trước tiếu đầu.
Canh giả vong kỳ sừ,
Sừ giả vong kỳ sừ.
Lai quy tương nộ oán,
Đãn toạ[5] quan La Phu.

Sứ quân[6] tòng nam lai,
Ngũ mã[7] lập trì trù.
Sứ quân khiển lại vãng,
Vấn “thị thuỳ gia thù?”
“Tần thị hữu hảo nữ,
Tự danh vi La Phu.”
“La Phu niên kỷ hà?”
“Nhị thập thượng bất túc,
Thập ngũ phả hữu dư.”
Sứ quân tạ[8] La Phu:
“Ninh khả[9] cộng tải bất?”
La Phu tiền trí từ[10]:
“Sứ quân nhất hà ngu!
Sứ quân tự hữu phụ,
La phu tự hữu phu.”

“Đông phương thiên dư kỵ,
Phu tế cư thượng đầu.
Hà dụng thức phu tế?
Bạch mã tòng ly câu[11].
Thanh ty hệ mã vĩ,
Hoàng kim lạc mã đầu.
Yêu trung lộc lô[12] kiếm,
Khả trị thiên vạn dư.
Thập ngũ phủ tiểu sử[13],
Nhị thập triều đại phu[14],
Tam thập thị trung lang[15],
Tứ thập chuyên thành cư[16].
Vi nhân khiết bạch tích,
Liêm liêm phả hữu tu.
Doanh doanh công phủ bộ,
Nhiễm nhiễm phủ trung xu.
Toạ trung sổ thiên nhân,
Giai ngôn phu tế thù[17].”

Bản dịch của Điệp luyến hoa

Mặt trời mọc đông nam,
Chiếu xuống lầu họ Tần.
Họ Tần có người đẹp,
Tên gọi là La Phu.
La Phu nuôi tằm giỏi,
Bên nam thành hái dâu.
Tơ xanh dây buộc giỏ,
Quế chi làm móc câu.
Trên đầu rủ tóc búi,
Dưới tai cài minh châu.
Quần lụa thêu vàng nhạt,
Áo tơ dệt tím màu.
Hành giả thấy La Phu,
Dừng gánh, tay vuốt râu.
Thiếu niên thấy La Phu,
Rơi khăn, nón đội đầu.
Người đi cày quên bừa,
Người đi bừa quên bừa.
Trở về gây cáu giận,
Bởi mải nhìn La Phu.

Sứ quân từ nam lại,
Năm ngựa đứng chần chừ.
Sứ quân gọi người hỏi,
“Kia con gái nhà ai?”
“Họ Tần có người đẹp,
Tên gọi là La Phu.”
“La Phu nay bao tuổi?”
“Hai mươi, còn chưa đủ,
Mười lăm, lại hơi dư.”
Sứ quân hỏi La Phu:
“Muốn chở nàng được chăng?”
La Phu trước xe đáp:
“Sứ quân sao quên ư!
Sứ quân đã có vợ,
La Phu có trượng phu.”

“Phía đông hơn ngàn ngựa,
Có chồng thiếp dẫn đầu.
Sao nhận ra chồng thiếp?
Bạch mã cùng ly câu.
Tơ xanh buộc đuôi ngựa,
Vàng quấn ở trên đầu.
Kiếm lộc lô lưng giắt,
Trị giá ngàn vạn dư.
Mười lăm làm tiểu lại,
Hai mươi thành đại phu.
Ba mươi quan thị trung,
Buốn mươi giữ thành to.
Là người có da trắng,
Mai dài, một chút râu.
Điềm tĩnh sai phủ lại,
Ung dung bước lẹ mau.
Nơi ngồi mấy ngàn vị,
Đều nói khó kiếm đâu.”
Mạch thượng tang đầu tiên được chép trong Tống thư phần Nhạc chí với dưới đề mục Diễm ca La Phu hành 艷歌羅敷行, sau được chép trong Ngọc đài tân vịnh dưới đề mục Nhật xuất đông nam ngung hành 日出東南隅行 và trong Nhạc phủ thi tập phần Tương hoạ ca dưới đề mục Mạch thượng tang.

Bài ca này miêu tả một cô gái hái dâu đã cơ trí cự tuyệt yêu cầu vô lý của viên thái thú. Dung mạo của cô gái hái dâu được miêu tả hoàn toàn gián tiếp thông qua những hình ảnh ẩn dụ hoặc qua cử chỉ và thái độ của những người khác, không có từ nào tả trực tiếp. Đòi hỏi vô lý của viên thái thú phản ánh thực tế hoang dâm vô lối của giới quan lại thời đó. Trước tình cảnh đó, nàng đã cơ trí đáp lại bằng cách khắc hoạ ra hình ảnh một người chồng với phẩm chất lý tưởng, đối lập với hình ảnh của viên thái thú.

Đây cũng chính là nguyên mẫu để Lý Bạch sáng tác bài Tử Dạ xuân ca.

[1] Mặt trời mùa xuân mọc ở hướng đông nam. Đây là thời điểm hái dâu nuôi tằm.
[2] Một tên thông dụng của con gái thời đó. Trong Khổng tước đông nam phi 孔雀東南飛 có: “Đông gia hữu hiền nữ, Tự danh Tần La Phu” 東家有賢女,自名秦羅敷 (Nhà phía đông có cô gái hiền, Tên là Tần La Phu).
[3] Tức truỵ mã kết 墮馬髻, tóc búi sang một bên nhìn như muốn rơi xuống, thịnh hành đời Đông Hán.
[4] Tên ngọc quý, còn gọi là Đại Tần châu.
[5] Toạ ở đây nghĩa là bởi vì. Hai câu ý nói người đi bừa, đi cày trở về muộn vì mải nhìn La Phu, khiến vợ chồng bất hoà.
[6] Quan thái thú, thứ sử đời Hán được gọi là sứ quân.
[7] Đời Hán, thái thú đi tuần dùng xe năm ngựa. Ngũ mã còn là cách gọi mỹ xưng với quan thái thú.
[8] Tạ ở đây nghĩa là hỏi.
[9] Ninh khả nghĩa là mong muốn, nguyện ý.
[10] Do chữ 致辭, nghĩa là lời đáp.
[11] Giống ngựa màu đen.
[12] Do chữ 轆轤 là hình con lăn, bánh xe. Lộc lô kiếm là trường kiếm có ngọc trạm khắc thành hình con lăn ở đầu.
[13] Chức quan bé nhỏ trong phủ thái thú. Có bản chép là phủ tiểu lại 府小吏.
[14] Chức quan lớn ở trong triều.
[15] Chức quan cận thần đi theo vua.
[16] Chức quan chủ một thành, như thái thú, thứ sử,...
[17] Hai câu ý nói mấy ngàn quan viên ngồi đó đều nói rằng chồng thiếp là một nhân tài xuất chúng, khó kiếm tìm.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Khuyết danh Trung Quốc » Mạch thượng tang