30/03/2024 00:43Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Hồi 18 - Cuối đời Nhà Lê, vua Lê chúa Trịnh (1782 - 1786)

Tác giả: Lê Ngô Cát - 黎吳吉

Thể thơ: Lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 17/03/2007 16:04

 

1. Loạn kiêu binh ở kinh thành

Sâm già, Cán lại thiếu niên
Phó cho Hoàng Bảo giúp nên sao đành?
Tuyên phi học thói buông mành,
Trong dưa dưới mận nhân tình đều nghi.
Ở trong Khải mới thừa ky,
Ngoài quân ba phủ nhân khi lộng hành.
Cùng nhau sáp huyết hội minh,
Trống hồi chửa dứt, các dinh đã vào.
Cửa thành binh lửa xôn xao,
Một cơn cỏ nội cá ao còn gì!
Cán vong, Khải lại tiếm vì,
Phủ binh từ ấy nhiều bề tuyên kiêu,
Hung hăng ngoài phố trong triều,
Phá nhà cướp của, dập dìu vào ra.
Đầy đường những tiếng oán ta,
Văn thần, võ tướng đều là bó tay.

2. Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất

Tiến đồn nghe đến giặc Tây,
Tiềm mưu còn rắp đợi ngày xuất chinh.
Có tên Nguyễn Chỉnh tài danh,
Nhân khi tao loạn đem mình hàng Tây.
Cơ quan mưu lược vẽ bầy,
Cam lòng nước cũ, mượn tay người ngoài.
Tây Sơn biết tỏ một hai,
Chia quân thuỷ bộ quyết bài kéo ra.
Ngọn cờ trổ lối sơn pha,
Hải vân đồn trấn, đâu là chẳng tan?
Cánh buồm đè lớp cuồng lan,
Cát Dinh, Động Hải quân quan chạy dài.
Nguỵ Tây còn sợ mặt ngoài,
Rắp ngăn Tràng Luỹ tính bài phân vương
Khéo đâu Chỉnh lại đưa đường,
Rằng: “Trong sự thế chi nhường cho ai?
Tướng công uy nhức bên trời,
Này cơ phát trúc hẳn mười chẳng xa.
Bấy lâu họ Trịnh gian tà,
Binh kiêu, dân oán ắt là bại vong.
Uy trời ai giám tranh phong,
Hãy xin thừa thắng ruổi giong cõi ngoài.”
Phải chăng Huệ mới nghe lời,
Lại cho Nguyễn Chỉnh, lĩnh bài tiên phong.
Lá buồm theo ngọn gió đông,
Vượt qua cửa bể vào sông Vị Hoàng.
Quân dung, đâu mới lạ nhường!
Mão mao, áo đỏ chật đường kéo ra.

3. Chúa Trịnh Khải bị bắt

Bụi hồng mờ mịt kinh hoa,
Lục Môn, Thuý Ái gần xa tan tành.
Quyết liều Trịnh mới thân chinh,
Tây luông giáp trận quân mình đảo qua
Nài voi toan trở lại nhà,
Cờ Tây Sơn đã mở ra đầy thành.
Qua Hạ Lôi rắp lánh mình.
Giữa đường gặp đứa phụ tình bắt ra.

4. Nguyễn Huệ trả quyền Lê Hiển Tông

Nguỵ Tây vốn kẻ hung tà,
Còn e người chốn Bắc Hà khó xong.
Phù Lê có biểu mật phong,
Mặt ngoài trung nghĩa, trong lòng gian phi.
Hiển tông tuổi tác đã suy,
Nghe tin binh biến biết gì là đâu.
Vừa khi Nguyễn Huệ vào hầu,
Vấn an lại kể gót đầu đinh ninh.
Rằng: “Nghe họ Trịnh cường hoành,
Vậy đem quân nghĩa quét thanh bụi trần.
Chủ trương mừng thấy đông quân.
Thái bình cây cỏ được nhuần hơi mưa.”
Phúc lành chúc chữ cửu như.
Của tin mấy quyển đồ thư dâng vào,
Bệ rồng ban chiếu tinh bao,
Gia phong Nguyễn Huệ đương trào quốc công.
Ngọc Hân vừa trạc đào hồng,
Ép duyên kim cải kết lòng sài lang,
Đương cơn đòng bác ngổn ngang,
Thực hư chưa tỏ, biến thường ai tin.
Hơi tàn gần trở gót tiên,
Lại vời Nguyễn Huệ gửi quyền quốc gia.
Một hai xin trở về nhà,
Bóng đèn, tiếng búa giám là di duyên.

5. Quân Tây sơn rút về Nam

Bảo thành kinh lý đã yên,
Ngôi cao phó lại cháu hiền thừa gia.
Duy Kỳ nối giữ nghiệp nhà.
Cải nguyên Chiêu Thống mới là sơ niên.
Huệ còn lưu ở Long Biên,
Anh là Nguyễn Nhạc theo miền lại ra.
Rước mời ngày tiếp đôi ba,
Bệ từ, Nhạc mới lân la tự tình
“Đất, dân đâu cũng triều đình,
Giao lân rồi sẽ cất mình Nam quy.”
Nửa đêm ám hiệu cuốn kỳ
Bao nhiêu tài hoá chuyên về sạch không.
Bỏ Nguyễn Chỉnh ở Thăng Long.
Cũng toan cắt cánh mở lồng với ai.
Về quê Chỉnh mới giả bài,
Rằng vâng mật chỉ hồi sai đất nhà.
Mộ quân hương dõng đem ra,
Ngoài là chống giặc, trong là giữ kinh.

6. Triều đình vua Lê Chiêu Thống

Cựu thần mấy kẻ công khanh,
Thoái hưu để việc miếu đình mặc ai?
Tân khoa còn có một hai,
Bùi Dương, Trần Án cũng người trung trinh.
Cùng nhau phụng sắc triệu binh,
Thổ hào củ tập vào kinh hộ tuỳ.
Phân vân tranh lập nhiều bề,
Kẻ phò Trịnh Lệ, người suy Trịnh Bồng.
Yến đô lại cứ tập phong,
Những mưu phò Trịnh, quên lòng tôn Lê.
Mậu Xưng, Tích Nhưỡng kể chi,
Phùng Cơ còn biết thị phi nhẽ thương,
Trách thay Trọng Tế họ Dương,
Cũng trong khoa bảng, cùng phường đai cân.
Sao không biết nghĩa quân thần,
Bầy mưu phế lập sắp quân vây thành.
Non sông còn mặt triều đình,
Bạc đen xem thấy nhân tình mà ghê.

7. Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền

Lê hoàng căm giận nhiều bề,
Mật thư sai sứ đưa về Nghệ An.
Chỉnh xưa tuy giả mưu gian,
Được thư rầy mới nở gan anh hùng.
Hịch bay đâu cũng nức lòng,
Tứ thành Tứ đột quân ròng hơn muôn,
Dặm trường thẳng ruổi chinh an
Nghệ, Thanh quét sạch mấy đoàn kiến ong,
Yến đô sức yếu thế cùng,
Theo Dương Trọng Tế qua vùng Bắc Ninh.
Đại quân tiến đến kinh thành,
Long tân ngự duyệt, đại đình thưởng công.
Loan thư ban trước thềm rồng
Cha phong Bằng quận, con phong tước hầu.
Trăm quan ngôi thứ ở đầu,
Cánh vây sum họp, phủ lầu nghênh ngang.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Lê Ngô Cát » Hồi 18 - Cuối đời Nhà Lê, vua Lê chúa Trịnh (1782 - 1786)