27/04/2024 05:19Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Bi phẫn thi
悲憤詩

Tác giả: Thái Diễm - 蔡琰

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Tam Quốc
Đăng bởi Vanachi vào 25/11/2008 10:16

 

Nguyên tác

漢季失權柄,
董卓亂天常。
志欲圖篡弒,
先害諸賢良。
逼迫遷舊邦,
擁主以自彊。
海內興義師,
欲共討不祥。
卓眾來東下,
金甲耀日光。
平土人脆弱,
來兵皆胡羌。
獵野圍城邑,
所向悉破亡。
斬截無孑遺,
尸骸相撐拒。
馬邊懸男頭,
馬後載婦女。
長驅西入關,
迥路險且阻。
還顧邈冥冥,
肝脾為爛腐。
所略有萬計,
不得令屯聚。
或有骨肉俱,
欲言不敢語。
失意幾微間,
輒言「斃降虜,
要當以亭刃,
我曹不活汝。」
豈敢惜性命,
不堪其詈罵。
或便加棰杖,
毒痛參並下。
旦則號泣行,
夜則悲吟坐,
欲死不能得,
欲生無一可。
彼蒼者何辜,
乃遭此厄禍?

邊荒與華異,
人俗少義理。
處所多霜雪,
胡風春夏起。
翩翩吹我衣,
肅肅入我耳。
感時念父母,
哀嘆無終已。
有客從外來,
聞之常歡喜。
迎問其消息,
輒復非鄉里。
邂逅徼時願,
骨肉來迎己。
己得自解免,
當復棄兒子。
天屬綴人心,
念別無會期。
存亡永乖隔,
不忍與之辭。
兒前抱我頸,
問母欲何之?
人言母當去,
豈復有還時?
「阿母常仁惻,
念何更不慈?
我尚未成人,
奈何不顧思!」
見此崩五內,
恍惚生狂痴。
號泣手撫摩,
當發復回疑。
兼有同時輩,
相送告離別。
慕我獨得歸,
哀叫聲摧裂。
馬為立踟躕,
車為不轉轍。
觀者皆歔欷,
行路亦嗚咽。

去去割情戀,
遄征日遐邁。
悠悠三千里,
何時復交會?
念我出腹子,
胸臆為摧敗。
既至家人盡,
又復無中外。
城郭為山林,
庭宇生荊艾。
白骨不知誰,
縱橫莫覆蓋。
出門無人聲,
豺狼號且吠。
煢煢對孤景,
怛吒靡肝肺。
登高遠眺望,
神魂忽飛逝。
奄若壽命盡,
旁人相寬大。
為復彊視息,
雖生何聊賴?
托命於新人,
竭心自勖勵。
流離成鄙賤,
常恐復捐廢。
人生幾何時,
懷憂終年歲!

Phiên âm

Hán quý[1] thất quyền bính,
Đổng Trác[2] loạn thiên thường[3].
Chí dục đồ thoán thí,
Tiên hại chư hiền lương[4].
Bức bách thiên cựu bang[5],
Ủng chúa[6] dĩ tự cương.
Hải nội hưng nghĩa sư[7],
Dục cộng thảo bất tường[8].
Trác chúng[9] lai đông hạ[10],
Kim giáp diệu nhật quang.
Bình thổ[11] nhân thuý nhược,
Lai binh giai Hồ, Khương[12].
Liệp dã[13], vi thành ấp[14],
Sở hướng tất phá vong.
Trảm tiệt vô quyết di[15],
Thi hài tương sanh cự.
Mã biên huyền nam đầu,
Mã hậu tải phụ nữ.[16]
Trường khu tây nhập quan[17],
Quýnh lộ hiểm thả trở.
Hoàn cố mạc minh minh,
Can tỳ vi lạn hủ.
Sở lược[18] hữu vạn kế,
Bất đắc linh truân tụ.[19]
Hoặc hữu cốt nhục câu,
Dục ngôn bất cảm ngữ.[20]
Thất ý kỷ vi[21] gian,
Triếp ngôn “Tễ[22] hàng lỗ,
Yếu đương dĩ đình[23] nhận,
Ngã tào[24] bất hoạt nhữ.”
Khởi cảm tích tính mệnh,
Bất kham kỳ lị mạ.
Hoặc tiện gia truỳ trượng,
Độc thống tham tịnh hạ.
Đán tắc hiệu khấp hành,
Dạ tắc bi ngâm toạ,
Dục tử bất năng đắc,
Dục sinh vô nhất khả.
Bỉ thương[25] giả hà cô,
Nãi tao thử ách hoạ?

Biên hoang[26] dữ Hoa[27] dị,
Nhân tục thiểu nghĩa lý.
Xứ sở đa sương tuyết,
Hồ phong xuân hạ khởi.
Phiên phiên xuy ngã y,
Túc túc nhập ngã nhĩ.
Cảm thì niệm phụ mẫu[28],
Ai thán vô chung dĩ.
Hữu khách tòng ngoại lai,
Văn chi thường hoan hỉ.
Nghênh vấn kỳ tiêu tức,
Triếp phục phi hương lý.
Giải cấu kiêu thì nguyện,
Cốt nhục[29] lai nghênh kỷ.
Kỷ đắc tự giải miễn,
Đương phục khí nhi tử.
Thiên thuộc[30] chuế nhân tâm,
Niệm biệt vô hội kỳ.
Tồn vong vĩnh quai cách,
Bất nhẫn dữ chi từ.
Nhi tiền bão ngã cảnh,
Vấn mẫu dục hà chi?
“Nhân ngôn mẫu đương khứ,
Khởi phục hữu hoàn thì?
A mẫu thường nhân trắc,
Niệm hà cánh bất từ?
Ngã thượng vị thành nhân,
Nại hà bất cố tư!”
Kiến thử băng ngũ nội[31],
Hoảng dịch sinh cuồng si.
Hiệu khấp thủ phủ ma,
Đương phát phục hồi nghi.
Kiêm hữu đồng thì bối[32],
Tương tống cáo ly biệt.
Mộ ngã độc đắc quy,
Ai khiếu thanh tồi liệt.
Mã vi lập trì trù,
Xa vi bất chuyển triệt.
Quan giả giai hư hy,
Hành lộ diệc ô yết.

Khứ khứ cát tình luyến,
Thuyên chinh nhật hà mại.
Du du tam thiên lý,
Hà thì phục giao hội?
Niệm ngã xuất phúc tử,
Hung ức vi tồi bại.
Ký chí gia nhân tận,
Hựu phục vô trung ngoại.
Thành quách vi sơn lâm,
Đình vũ sinh kinh ngải.
Bạch cốt bất tri thuỳ,
Tung hoành mạc phúc cái.
Xuất môn vô nhân thanh,
Sài lang hiệu thả phệ.
Quỳnh quỳnh đối cô cảnh,
Đát tra mỹ can phế.
Đăng cao viễn diểu vọng,
Thần hồn hốt phi thệ.
Yểm nhược thọ mệnh tận,
Bàng nhân tương khoan đại.
Vi phục cưỡng thị tức,
Tuy sinh hà liêu lại?
Thác mệnh ư tân nhân,
Kiệt tâm tự úc lệ.
Lưu ly thành bỉ tiện[33],
Thường khủng phục quyên phế.
Nhân sinh kỷ hà thì,
Hoài ưu chung niên tuế!

Bản dịch của Điệp luyến hoa

Hán mạt mất quyền bính,
Đổng Trác loạn dưới trên.
Chí hòng cướp ngôi báu,
Trước tiên giết kẻ hiền.
Bức bách về kinh cũ,
Ép vua phải theo mình.
Thiên hạ cờ nghĩa dấy,
Cùng nhau dẹp nhiễu nhương.
Quân Trác tới Trần, Dĩnh,
Ánh giáp toả hào quang.
Trung Nguyên người sức yếu,
Lính tới rặt Hồ, Khương.
Bắt thôn, vây thành ấp,
Mỗi chốn đều tan hoang.
Giết sạch không để sót,
Khắp nơi xác vãi vương.
Treo đầu quanh mình ngựa,
Phụ nữ chở sau xe.
Ruổi rong qua Hàm Cốc,
Hiểm trở vây bốn bề.
Ngoảnh lại xa mờ mịt,
Ruột gan đã nát lìa.
Bị bắt người có vạn,
Họp nhau chẳng cách gì.
Có kẻ là thân thích,
Cũng không thể sẻ chia.
Một chút gì trái ý,
Tức thì “Kẻ hàng kia,
Mũi dao này có muốn,
Chúng tao toại cho rồi.”
Há đâu tiếc tính mệnh,
Thoá mạ chẳng cam lời.
Có kẻ chịu gậy gộc,
Khổ hận giáng xuống người.
Sớm đi thê thảm khóc,
Tối rên, chỉ biết ngồi.
Muốn chết mà không được,
Muốn sống chẳng đường thôi.
Ta nào gây tội lỗi,
Sao đày đoạ hỡi trời?

Hoang thảo phong tục khác,
Đạo lý chẳng giống ai.
Một nơi nhiều sương tuyết,
Gió Hồ suốt năm dài.
Phiêu phiêu phất tà áo,
Lồng lộng thổi vào tai.
Những khi nhớ phụ mẫu,
Kêu than mãi khôn nguôi.
Có khách từ ngoài tới,
Được hay, xiết mừng vui.
Ra đón thăm tin tức,
Quê lại chẳng cùng nơi.
Bỗng có người thân thích,
Phái sứ giả đón về.
Khi được toàn nguyện vọng,
Lại khó bỏ hài nhi.
Máu mủ liền khúc ruột,
Tái ngộ không hẹn kỳ.
Sống chết đều xa cách,
Sao nỡ nói chia ly.
Hài nhi ôm lấy cổ,
Hỏi mẹ thực muốn đi?
“Người bảo là như vậy,
Mai kia có trở về?
Thường ngày mẹ yêu mến,
Sao nay chẳng nhân từ?
Hài nhi còn nhỏ tuổi,
Nỡ chẳng đoái hoài ư!”
Nhìn lòng như tan nát,
Hoảng hốt như cuồng si.
Khóc gào, tay xoa xuýt,
Lâm hành thực lâm ly.
Người xưa cùng bọn tới,
Ra đưa tiễn trở về.
Ngưỡng mộ ta may mắn,
Than thở xiết sầu bi.
Chân ngựa chần chừ đứng,
Bánh xe chẳng chuyển di.
Ngậm ngùi người đưa tiễn,
Sùi sụt kẻ ra đi.

Càng đi càng xa cách,
Mỗi ngày một phân ly.
Dằng dặc ba ngàn dặm,
Gặp nhau biết có khi?
Nhớ con đứt ruột đẻ,
Lòng đau tựa đứt lìa.
Về nhà, người đâu bóng,
Vắng tanh khắp trong ngoài.
Thành quách hoá rừng rú,
Khắp sân ngải mọc đầy.
Xương trắng nào biết ai,
Ngang dọc không gì đậy.
Lắng tiếng người chẳng thấy,
Chỉ độc tiếng sài lang.
Người cô trong cảnh độc,
Sầu uất nát tâm can.
Lên cao phóng tầm mắt,
Hồn phách tựa lìa tan.
Chợt như là đã chết,
Người theo phải chấn an.
Mới nhìn và thở lại,
Dẫu sống như chẳng còn?
Thân nay gửi người mới,
Gắng giữ lấy tinh thần.
Lưu lạc nên rẻ rúng,
Thường sợ lại gian nan.
Đời người có là mấy,
Ưu hoài suốt trăm năm.
Bi phẫn thi gồm hai bài, đây là bài thứ nhất, dài tổng cộng 108 câu, gồm ba đoạn. Đoạn thứ nhất kể về việc Văn Cơ bị quân của Đổng Trác bắt đi, đoạn thứ hai kể thời gian nàng ở Nam Hung Nô và cảnh chia tay trở về, đoạn thứ ba tả cảnh nàng thăm lại nhà cũ nhưng không còn ai trên đời. Bài thơ này được coi là một kiệt tác thơ ca đương thời, cùng với Tiêu Trọng Khanh thê 焦仲卿妻 được coi là hai viên ngọc sáng trong thể loại thơ tự sự thời đó.

Bài thơ không nói rõ quá trình từ khi nàng bị quân Đổng Trác bắt tới khi nàng lưu lạc tới Nam Hung Nô, sử sách cũng không thấy ghi chép. Hậu Hán thư, phần Liệt nữ truyện chép năm Hưng Bình thiên hạ đại loạn, Văn Cơ bị quân Hồ bắt nộp cho Tả Hiền Vương. Hưng Bình (194-195) là niên hiệu đời Hán Hiến Đế, Văn Cơ bị quân Đổng Trác bắt vào năm 192, thời gian ba năm sau đó lưu lạc ra sao không thấy đâu chép. Căn cứ theo sử sách, tháng 11 năm Hưng Bình thứ 2 (195), Lý Thôi, Quách Dĩ bị Tả Hiền Vương của Nam Hung Nô đánh bại, có thể nàng bị bắt về từ đây.

Bài thứ hai của Bi phẫn thi dài 38 câu, cũng thuật về việc nàng bị bắt đi đến cảnh chia tay với con trở về, nhưng viết theo lối Sở từ.

[1] Cuối đời Hán. Câu này chỉ việc cuối đời Hán, vua mất quyền bính, triều chính rơi vào tay hoạn quan và ngoại thích.
[2] Đổng Trác (132 – 192) tự Trọng Dĩnh 仲穎, người Lũng Tây (nay thuộc tỉnh Cam Túc), trước làm tướng nhà Hán, dẹp loạn một số dân tộc thiểu số, rồi tham gia đối phó giặc Khăn Vàng, mấy lần bại trận, binh sĩ tán tác nhưng vẫn được thăng chức Tiền tướng quân, nắm giữ binh quyền, sau làm quan đến chức Thái sư, tước hầu. Nhân ngoại thích Hà Tiến 何進 bị giết, Đổng Trác đem quân vào kinh khống chế triều chính, phế Thiếu Đế và lập Hiến Đế rồi bị liên minh Quan Đông thảo phạt nên đem vua dời đô từ Lạc Dương đi Trường An. Cuối cùng, Vương Doãn 王允 dùng mỹ nhân kế ly gián khiến con nuôi Lã Bố 呂布 dùng kích đâm chết Đổng Trác.
[3] Tức cương thường, chỉ thứ tự trên dưới giữa vua tôi, cha con,… Câu này chỉ việc Đổng Trác làm loạn triều chính.
[4] Chỉ Chu Bật 周珌 và Ngũ Quỳnh 伍瓊. Đổng Trác khi dời đi Trường An, hai người này đã ngăn cản và bị chém.
[5] Chỉ Trường An, vốn là kinh đô đời Tây Hán.
[6] Chỉ Hán Hiến Đế 漢獻帝.
[7] Chỉ liên minh chư hầu Quan Đông thảo phạt Đổng Trác.
[8] Người làm những việc yếm trá, chỉ bọn Đổng Trác.
[9] Chỉ bọn bộ hạ của Đổng Trác là Lý Thôi 李傕, Quách Dĩ 郭汜, Trương Tế 張濟.
[10] Chỉ các huyện Trần Lưu, Dĩnh Xuyên. Thái Diễm là người Trần Lưu, bị quân Đổng Trác bắt ở đây.
[11] Bình nguyên, chỉ Trung Nguyên.
[12] Phiếm chỉ các dân tộc phía bắc và phía tây Trung Quốc, quân đội của Đổng Trác đa phần là từ những dân tộc này.
[13] Ý nói bắt bớ giết chóc ở vùng nông thôn.
[14] Vây đánh thành trì.
[15] Không để sót lại dù chỉ một.
[16] Hai câu tả cảnh khi ở Trần Lưu, sử sách không còn ghi chép nhiều. Tam quốc chí chép khi đó tháng hai, dân chúng đang có hội xuân, quân Đổng Trác giết hết nam tử treo đầu quanh xe ngựa, bắt bớ phụ nữ và lấy của cải đem đi; vào Dương Thành, sai đốt hết đầu người, đàn bà con gái đem chia cho binh sĩ, phao là thắng trận.
[17] Chỉ ải Hàm Cốc. Lý Thôi, Quách Dĩ bắt giết ở Trần Lưu, Dĩnh Xuyên đem người về huyện Thiểm, nằm ở phía tây ải Hàm Cốc.
[18] Do chữ 掠, bắt.
[19] Hai câu ý nói những người bị bắt tới hàng vạn, nhưng tản mát trong quân, không thể tụ hợp lại.
[20] Hai câu ý nói những người thân cận cùng bị bắt tới cũng không thể nói năng, giúp đỡ lẫn nhau.
[21] Một chút.
[22] Như tử 死, tử 死 thông với xứ 處, chỉ ở đây, nơi này.
[23] Nghi viết nhầm từ chữ sự 事, sự thông với chí 剚, nghĩa là đâm. Đâm dao có thể viết là chí nhận 剚刃.
[24] Chúng ta. Từ do phỉ quân tự xưng.
[25] Tức bỉ thương thiên 彼蒼天 (yết hậu), chỉ trời xanh.
[26] Chỉ Nam Hung Nô, nay thuộc vùng Nội Mông.
[27] Chỉ người Hán ở Trung Nguyên.
[28] Khi này cha mẹ nàng đã chết, có thể nàng chưa biết.
[29] Tức người thân, ám chỉ Tào Tháo. Sử chép Tào Tháo là bạn chí giao của Thái Ung, cha nàng, nên ở đây được gọi là cốt nhục. Có thuyết giải thích cốt nhục chỉ ám chỉ đồng bào người Hán.
[30] Tức thân thuộc, ruột thịt, ở đây chỉ mẹ con.
[31] Tức ngũ tạng.
[32] Chỉ những người xưa cùng bị bắt tới Nam Hung Nô.
[33] Câu này ý nói vì nàng trải qua lưu lạc truân chuyên mà trở thành rẻ rúng.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Thái Diễm » Bi phẫn thi