29/03/2024 16:31Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Luận thi kỳ 03
論詩其三

Tác giả: Nguyên Hiếu Vấn - 元好問

Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Nam Tống, Kim
Đăng bởi Vanachi vào 29/12/2007 17:30

 

Nguyên tác

鄴下風流在晉多,
壯懷猶見缺壺歌。
風雲若恨張華少,
溫李新聲奈爾何!

Phiên âm

Nghiệp hạ phong lưu[1] tại Tấn đa,
Tráng hoài do kiến khuyết hồ ca[2].
Phong vân nhược hận Trương Hoa[3] thiểu,
Ôn Lý[4] tân thanh[5] nại nhĩ hà!

Dịch nghĩa

Phong cách văn chương ở đất Nghiệp còn phần nhiều ở đời Tấn,
Phong cách hào sảng còn thấy ở khúc hát với bầu rượu sứt.
Nếu như hận thơ Trương Hoa vẫn ít phong vân,
Thì thơ Ôn Lý nghe mới mẻ hơn vậy (tức nhiều phong vân hơn).

Bản dịch của Điệp luyến hoa

Đất Nghiệp văn chương nhiều tại Tấn,
Còn nghe hào sảng khúc hồ ca.
Phong vân nếu hận Trương Hoa ít,
Ôn Lý một dòng chẳng thấy a?
Nguyên chú: "Chung Vanh bình Trương Hoa thi, hận kỳ nhi nữ tình đa, phong vân khí thiểu" 鐘嶸評張華詩,恨其兒女情多,風雲氣少 (Chung Vanh bình thơ Trương Hoa, nhiều hận tình nhi nữ, ít hào sảng). Bài này luận thơ đời Tây Tấn, đại ý nói thơ đời Tây Tấn kế thừa phong cách hào sảng đời Kiến An, nhưng đã có Trương Hoa khai sáng lối thơ mỹ lệ của Tề Lương và Vãn Đường.

[1] Chỉ phong cách văn chương đời Kiến An. Nghiệp là tên huyện đời Hán, nay thuộc Lâm Chương, Hà Nam. Năm Kiến An đời Hán Hiến Đế, ba cha con Tào Tháo cứ thủ Nghiệp Thành, cùng Kiến An thất tử sáng tác tạo nên một phong cách văn chương hào sảng. Nghiệp trung thất tử, hay Nghiệp hạ tài nhân cũng đều chỉ Kiến An thất tử.
[2] Nghĩa là bài ca với bầu rượu sứt. Tấn thư, Vương Đồn truyện: Vương Đồn 王敦 muốn cướp chính quyền, mỗi lần uống rượu xong đều ngâm một bài nhạc phủ vịnh Nguỵ Vũ Đế (tức Tào Tháo): "Lão ky phục lịch, Chí tại thiên lý; Liệt sĩ mộ niên, Tráng tâm bất dĩ" 老驥伏櫪,志在千里;烈士暮年,壯心不已 (Con ngựa chiến già quay mặt vào tường, Chí vẫn ở ngoài ngàn dặm; Kẻ sĩ khi cuối đời, Tráng tâm vẫn không mất), vừa ngâm vừa gõ vào bầu rượu làm cho sứt mẻ.
[] Ở đây chỉ thơ ca có khí cốt hào tráng, khảng khái.
[3] Đại thần đời Tây Tấn, thi từ hoa lệ, danh tiếng một đời. Chung Vanh trong Thi phẩm bình về thơ ông: thi từ hoa lệ, cao thấp bất kỳ, khéo dùng chữ nghĩa, tuy danh cao một đời, nhưng mang nhiều bi hận nữ nhi, nên ít khí phong vân (xem chú thích phong vân ở trên).
[4] Chỉ hai thi nhân Vãn Đường là Ôn Đình Quân 温庭筠 và Lý Thương Ẩn 李商隐, thơ từ hoa mỹ, cùng Đoàn Thành Thức 段成式 làm nên Tam thập lục thể (thể của ba người đứng thứ 16, do ba người này phong cách thơ ca gần giống nhau và đều đứng thứ 16 trong gia tộc).
[5] Ý nói thơ Ôn Lý mới mẻ, cách điệu, so với thơ Trương Hoa càng nhiều tình nhi nữ, ít khí phong vân.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyên Hiếu Vấn » Luận thi kỳ 03