30/03/2024 05:15Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tư Dung vãn

Tác giả: Đào Duy Từ - 陶維慈

Thể thơ: Lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 13/01/2008 16:27

 

Cõi Nam từ định phong cương,
Thành đồng chống vững âu vàng đặt an.
Trải xem mấy chốn hồ san,
Hoa tươi cỏ tốt đòi ngàn gấm phong.
Khéo ưa thay cảnh Tư Dung,
Cửa thâu bốn bể, nước thông trăm ngòi.
Trên trời tinh tú phân ngôi,
Đêm treo thỏ bạc, ngày soi ác vàng.
Dưới trời sơn thuỷ khác thường,
Động Đình ấy nước, Thái Hàng kìa non.
Cuộc thiên hiểm nửa Kiếm Môn,
Chốn tranh vương bá, dòng tuông công hầu.
Vần xoay hùm núp rồng chầu,
Quanh dòng nước biếc, giỡn màu trời xanh.
Đoái dòng thương hải rộng thênh,
Bâng khuâng sẽ nhớ đức lành Tiên quân.
Đường Ngu lấy đức trị dân,
Súng trời buông lửa, sóng thần nép oai.
Đặt an nệm chiếu trong ngoài,
Cánh chim hồng nhạn phới bay vui vầy.
Sực nhìn đáy nước in mây,
Trăng kia rọi sóng, sóng này giỡn trăng.
Đuốc hồng thấp thoáng trông chừng,
Đưa thoi nhật nguyệt chơi vừng Đẩu Ngưu.
Lần xem ngàn khoảnh ba đào,
Vũng không thấy đục, dòng nào chẳng trong.
Éo le lũ hến đầu đồng,
Sức đâu Tinh Vệ ra công lấp hồ.
Nực cười hai gã ngao cò,
Tranh chi nên nỗi đôi co vậy là?
Thú vui thửa thú ngư hà,
Rùa linh đội sách bạng già sanh châu.
Thẳm xanh trăm trượng khôn dò,
Cớ sao khát uống chẳng no một người.
Lẽ thường đắp đổi đầy vơi,
Thi Di bao nở tếch khơi Ngũ hồ.
Nhạn đâu văng vẳng kêu thu,
Trương Hàn hứng cảm Thành Đô ra về.
Canh thuần gỏi vược thú quê,
Nồng phương tiêu sái, lạt bề công danh.
Cảnh màu trời sẵn để dành,
Có doi thả lưới, có ghềnh buông câu.
Bên thuyền lác đác giọt châu,
Cầm đâu đã phiếm, ca đâu lại bài.
Lạnh lùng lãnh bắc khoảng tây,
Châu cày đảnh Sở, Doãn cày nội Thang.
Gió đưa thoảng mực mùi nhang,
Người tiên đất ngọc phong quang ưa nhìn.
Có nơi vinh nguyệt bá thuyền,
Kinh ngâm thảnh thót, chuông thiền đỉnh đang.
Là nơi tử vũ nghiêm trang,
Trung trinh hai chữ lửa hương muôn đời.
Đông tây đều cách vãng lai,
Rước ai nọ quán, đưa ai nọ đò.
Am ta kiệt lập non Vu,
Đêm khuya chuông dóng gọi chùa Bà Viên.
Dập dìu buồm xuống thuyền lên,
Cánh hồng lướt gió, ngàn thu điểm đà.
Thú vui mảng những lân la,
Bỗng đâu xao xác tiếng gà dóng canh.
Bích đàm leo lẻo trong xanh,
Kìa vòng Kiệu tẩu, họ danh miếu thừ.
Danh thành tiếng nổi gần xa,
Làm trai dường ấy thiệt đà nên trai.
Mênh mông biển rộng sông dài,
Hải tần còn dấu, Vân đài còn danh.
So le cuối vịnh đầu gành,
Người nôn bắt ngạc, kẻ giành cắp ngao.
Côn đưa nóng nhảy lao xao,
Vẫy đuôi một phút bay cao chín trời.
Xa trông biển rộng chơi vơi,
Thuyền ông Phu Tử ruổi chơi chốn nào.
Lánh đời mấy khách ly tao,
Non tiên ngao ngán, nguồn đào sóng khơi.
Buồm ai dàng dạng chân trời,
Phất phơ cờ gió, thẳng vời chèo trăng.
Lửa ngư ánh lộn bóng Hằng,
Nhắm miền hải đảo tưởng chừng Thiên Thai.
Thuỷ tần chốn ấy nghiêm thay,
Người vui rượu thánh, cá say thơ thần.
Chợ qua quán nguyệt ngày xuân,
Mặc dù khách Sở, người Tần nghỉ ngơi.
Kìa đâu khói biếc ngời ngời,
Mỗi am một đảnh kẻ nơi bồng hồ.
Bút Vương Duy khéo vẽ đồ,
Mây xuân dường gấm, nước thu tợ ngần.
Người thanh tân, cảnh thanh tân,
Ngàn lau quyến nhạn, bãi tần sa le.
Mảng còn ngợi cảnh giang khê,
Lá ngô phơi nắng, ngọn quỳ dầm sương.
Vẳng nghe điêu đẩu tiếng vang,
Ló xem thấy một toà vàng cẩn nghiêm.
Tử vi rạng tỏ trước rèm,
Trong mừng thánh Chúa dũ xiêm trị lành.
Điềm trình hải án hà thanh,
Khánh vân quanh nhiễu, cảnh tinh sáng loà.
Đôi nơi tiệc mở ỷ la,
Chốn ngân bạch tuyết, nơi ca thái bình.
Rợp đường kiệu tía tàn xanh,
Kìa đoàn quân soái, nọ doanh tướng hùm.
Giữa trời rồng dấy mây xum,
Xuân đưa muôn hộc đàm thâm hoà ngàn.
Cửa sông trông lại bến lan,
Giữa dòng núi đá thạch bàn lạ sao!
Kình nghê chống vững đảnh ngao,
Gập ghềnh nanh sấu, dợn sao bọt kình.
Kim ngư đeo ẩn ở mình,
Cá trông cửa Vũ, rồng giành hột châu.
Vườn lê muôn khoảnh mơ hồ,
Gấm tuôn vẻ biếc, quyến phô nhị đào.
Giao long cuồn cuộn chầu vào,
Sánh nơi cửa ngọc khác nào cung tiên.
Hồ gương rạng tỏ thuyền quyên,
Đêm thanh có khách nổi thuyền ca chơi.
Ca rằng:
“Non xanh xanh, nước xanh xanh,
Có non có nước mới song thanh.
Hồ tiên biển thánh dầu thong thả,
Thuyền ai một lá nổi Động Đình.”
Ca thôi thơn thớt cả cười,
Ghé thuyền bãi tuyết, nhẹ giày bước lên.
Thần châu cảnh hảo vô biên,
Lảnh mai sơn tẫu, hồ liên tây hồ.
Đoái nhìn nọ tháp kìa chùa,
Trinh măng một đỉnh cổ cò khá khen.
Bửu đông nen một hồ thiên,
Trăng thiền soi tỏ, rừng thiền rạng thanh.
Lạ thay tạo hoá đúc hình,
Đất bằng nổi một đỉnh xanh trước trời.
Xa trông chất ngất am mây,
Mái nam hạc diễu, mái tây rồng chầu.
Kiền khôn riêng quảy một bầu,
Ngoài thâu tám cõi, trong thâu ba tài.
Tốt thay cảnh hợp với người,
Đã lâu trông sóng lại đào chơi trăng.
Sóc tuôn, cáo nhảy tưng bừng,
Ong say nếm nhị, bướm mừng giỡn hoa.
Những khi gió toả yên hà,
Mảng âu mấy chốn Di Đà Tây thiên.
Những khi Thái Ất nhen đèn,
Hào quang soi tỏ trên đền Thái La.
Những khi bóng ác ban tà,
Nhành treo gấm kết, lửa già vàng tương.
Những khi Ngân Hán treo gương,
Kim quy hiện vảy, lục dương mở mày.
Trách ai lòng khéo thày lay,
Khua chuông lầu bắc, dóng chày thành nam.
Chốn thanh gợi một danh lam,
Ước tay tiêu sái mới cam dựa nhờ.
Linh chi rước nước Ma Ha,
Trân cầm chiu chít, kỳ hoa lăng tằng.
Thiên thê từng vẹn đòi tầng,
Bước lên ngửa đã thấy chừng ngọc kinh.
Tay tiên chống vững thạch bình,
Tam quan trông thấy uy linh động người.
Xưa kia ba chữ tốt tươi,
Rằng chuông hải tự kết vời huyền đô.
Rõ ràng son phấn điểm tô,
Bên tranh cửu lão, bên đồ bát tiên.
Chuông đâu vừa động mái thiền,
Mây lành kết đoá, trái tiên phơi màu.
Cuộc đời lồng lộng trước sau,
Từ bi nọ các, tiêu diêu ấy đền.
Kíp thâu thế giới ba nghìn,
Danh sơn có một danh chiền đâu hai.
Rửa thanh bán điểm trần ai,
Nghỉ xem tiên cảnh đã ngoài phàm gian.
Toả vàng bông lục chang chang,
Đan thanh quyết vẽ, trầm đàn cột xoi.
Đòi nơi ngọc trổ châu rơi,
San hô lề đá đồi mồi tường xây.
Mưa hoa tưới khắp sân mây,
Khói hương nghi ngút rồng bay ngất trời.
Nghiêm thay tướng pháp Như Lai,
Cao giơ tuệ kiếm, sáng ngời thuỷ tinh.
Thời lành cả mở hội lành,
Reo đưa gió Phật, quét thanh bụi tà.
Vầy đoàn yến múa oanh ca,
Vượn xanh dâng trái, hạc già nghe kinh.
Phật đình nào khác vương đình,
Ngũ vân tán lớn, cảnh tinh ngoại tường.
Tiên nga nâng chén quỳnh tương,
Tiêu Thiều nhạc múa, thái dương khí hoà.
Xiêm nghê rạng thức tử hà,
Kim đồng ngọc nữ xướng ca đôi hàng.
Người dâng thánh thọ vô cương,
Bào đào chánh nhuỵ thiên hương đầy toà.
Rừng công cây đức diềm dà,
Trỏ chồi y bát, kết hoa bồ đề.
Vẳng nghe tiếng mỏ đồ lê,
Ngòi phiền bến não rửa thì sạch không.
Dịch nên cảnh lạ vô song,
Hứng xui tao khách điêu trùng ngợi khen.
Thơ rằng:
“Một bầu chi cũng thú yên hà,
Nghi ngút hương bay cửa Thái La.
Ngày vắng vang reo chuông Bát Nhã,
Đêm thanh dóng dỏi kệ Di Đà.
Nhặt khoan đờn mối ban mưa tạnh,
Réo rắt ca chùn thuở bóng tà.
Há đạo đâu xa mà nhọc kiếm,
Bồ đề kết quả ở lòng ta.”
Thơ thôi vẫy gọi thiền tăng,
Cảnh này thú ấy vui chăng hỡi thầy?
Nghêu ngao tắm suối nằm mây,
Thị phi mặc thế, tháng ngày thung dung.
Làu làu gương sáng giá trong,
Vui niềm son đỏ, lánh dòng bạc đen.
Người đà nên đứng cao thiền,
Phật dầu chưa hẳn, ắt tiên đã gần.
Kìa ai thói tục chẳng răn,
Tiềm tâm Đạo Chích, ẩn thân Di Đà.
Rừng thiền lẫn dấu vào ra,
Cắp trăng vườn hạnh, trộm hoa cửa đào.
Nam mô hai chữ bán rao,
Lòng gương soi tỏ lưỡi dao sáng ngời.
Rằng hay cứu vật độ người,
Xử mình chẳng chính, chính ai đó là?
Đã rằng nương dấu Thích Ca,
Nào thuyền Bát Nhã vượt qua ái hồ.
Đã rằng dưa muối bả bô,
Lạp bình tương thuỷ những đồ cao lương.
Đã rằng chống vững Kim Cương,
Nào gươm cắt muộn, nào gương soi tà.
Nào phương ngay chúa thảo cha,
Nào phương lợi nước lợi nhà xa toan.
Nào ai sức trải gian nan,
Chẳng soi chính đạo, dẹp loàn dưới dân.
Sao bằng người ẩn non nhân,
Cây che mắt tục, mới ngăn lòng tà.
Dạo chơi thế giới bà sa,
Sớm vào cửa thánh, tối ra hàng thần.
Ở trần mà chẳng nhiễm trần,
Tả chân bèn ngợi một vần hoạ xoang.
Thơ rằng:
“Ai gọi lâm tuyền thú chẳng vui?
Ca chùn đờn suối hảo hoà đôi.
Hây ha thu rót bầy huỳnh cúc,
Thủng thỉnh xuân trèo lảnh bạch mai.
Chống tuyết thông già đeo hổ phách,
Lướt sương trúc cứng đượm đồi mồi.
Hay đâu là phúc đâu không phúc,
Tạm lánh trần gian chốn lẻ loi.”
Thơ thôi bước tới ngàn thông,
Đường chùn lắt léo suối rồng nhiễu quanh.
Lầu dựng đá, cảnh vẽ tranh,
Hoè vàng trương tán, lầu xanh phớt cờ.
Liễu tươi trúc đượm đoá ưa,
Đào non ngậm tuyết thông già chống sương.
Lơ thơ bóng xế hải đường,
Gà rừng eo óc, dế tường đảnh đa.
Thoảng chừng trông lại thanh sa,
So le cánh nhạn bay qua mái chiền.
Rèm hồng lầu tía đua chen,
Đỏ loè khoảnh biếc xanh in đáy ngần.
Linh Sơn một đỉnh tần ngần,
Tám phương cõi thọ đài xuân xum vầy.
Màn trời muôn trượng không dời,
Cao thay Kiều Nhạc, vững thay Thái Bàn.
Doi le vịnh hạc chen đoàn,
Cầm bầu thanh cúc, dũ màn bạch vân.
Thuyền ai kề cận bãi tần?
Thương lang dóng đã một vần hoà ghê.
Ca rằng:
“Dòng trong vì nguồn sạch,
Bóng thẳng bởi cây ngay.
Thái bình mừng gặp hội,
Chốn chốn hứng đều say.”
Ngâm thôi cười nói thoả thê,
Thú vui mát mẻ bán kề thú trăng.
Tới lui cẩn niệm đạo hằng,
Loan le gá bạn, gió trăng kết mành.
Lánh thời yến sẻ cùng oanh,
Quảy bầu danh lợi chí kình sá bao?
Trót chừng hồng hộc bay cao,
Lẽ đâu ngồi luận cò ngao rối lòng.
Khách nghe cả gọi ngư ông,
Thuyền ngươi đậu đó, tớ cùng luận chơi.
So xem trong đạo làm người,
Lấy nơi đâu chánh, bỏ đâu nơi tà.
Ngư rằng: “Lời thiệt chẳng ngoa,
Tại minh minh đức ấy là nẻo xưa.
Trăng ngô gió liễu chẳng ưa,
Lẽ đâu gẫm biết lời xưa tiền hiền.
Suối mới thông, lửa mới nhen,
Càng cao càng vọi, càng bền càng soi.
Bầu Nhan nếm cũng biết mùi,
Gội dòng sông Tứ, này chồi non Ngưu.
Năm hằng, ba mối làm đầu,
Cội tùng nhành bách mặc dầu đông tây.
Chớ nghe lời nói êm tai,
Dẫn đường hoạ phước, luận thời hư vô.
Sao bằng tâm chánh thân tu,
Thảo ngay là chí trượng phu trên đời.”
Đàm thôi trở lại non mây,
Suối đờn thảnh thót, niềm tây chạnh phiền.
Ngẫm thế sự thể bóng đèn,
Cớ chi quyến luyến trần duyên nhọc mình.
Xa hơi vừa cách góc thành,
Vật vờ hờn tục trên thành chào ai.
Người nào thắc thoải non đoài,
Tay xoang khoan nhặt, miệng thài nghêu ngao.
Ngâm rằng:
“Búa trăng đủng đỉnh,
Rìu gió thảnh thơi.
Ngàn liễu mưa vừa ráo,
Nguồn đào nắng mới phơi.
Xa xem thấy Thiên Thai vòi vọi,
Bàn khê đầu điểm tuyết là ai?
Yên hà treo một gánh,
Trung hiếu nặng hai vai.
Kíp thán dài với ngắn,
Nào khác thánh dụng tài.”
Dừng chân xin hỏi gã tiều:
“Thú non, thú nước người yêu thú nào?”
Tiều rằng: “Nhân trí đứng cao”,
Non tiên từng trải, suối đào từng sang.
Kìa như Lượng ẩn Long Cang,
Vững chia chân vạc vinh vang muôn đời.
Kìa như Quan Võ điếu đài,
Côn Dương một trận phá hoài Mảng gian.
Những mong ngợi thú khảo bàn,
Cây kia đã gác trên ngàn cao ngâm.
Ngâm rằng:
“Sớm thời dậy, tối thời nằm,
Khát đào uống, đói cày ăn.
Sự ai ta chẳng biết,
Thú ta ai dễ ngăn?
Lều Doãn ơ thờ ba mớ cỏ,
Kíp thâu phong nguyệt bốn mùa xuân.”
Xa nghe cả gọi kẻ cày,
Thú ta vui dạo chốn này ai ngăn.
Mặc dầu cuốc giá cày trăng,
Rau cần sự cũ lẽ hằng đó chăng?
Lem nhem sách Dịch treo sừng,
Duyên sao tỏ đặng phế hưng sự đời.
Linh Sơn ấy dấu ai cày?
Chim kia tha cỏ voi nầy thế trâu.
Mựa nơi trải gió tắm mưa,
Hoạ may nhuốm gội ơn thừa Đường, Ngu.
Mảng xem cảnh cũ làm vui,
Vẳng nghe tiếng địch mục phu góc rừng.
Bên rừng vừa gác bóng trăng,
Gác chân cật nghé gõ sừng ca chơi:
Ca rằng:
“Nội Vỏ rộng,
Dặm Châu ngay,
Rau non phiếm,
Cỏ xanh rì.
Hứng vui cánh diếu mặc lòng ai,
No miệng trâu ta thẳng nét cày.
Dầu có Điền Đan ra kế xảo,
Nên ngồi ta chẳng thấy rằng hay.”
Lân la vẩy mục buông lời,
Rằng người chắc đã nên người phong lưu.
Hiu hiu hứng mát đền Vu,
Gió xuân thay quạt, trăng thu thế đèn.
Ấy là cưỡi hạc lên tiên,
Thị thành cũng trải, lâm tuyền cũng xuê?
Kìa ai lụm cụm Bàn Khê,
Tám trăm chỉ đỏ, cuộn về một dây.
Kìa ai thơ thẩn non tây,
Nương không cưỡi gió ước gì theo tiên.
Kìa ai mến cảnh hồ thiên,
Chí nguyền viên hạc, kết nguyền gió trăng.
Kìa ai dạo chốn sơn trang,
Ghê nơi cảnh lạ, thú càng vui xuê.
Kìa ai tay hái cỏ vi,
Chim kêu ngỡ tiếng Bá Di nên mừng.
Kìa ai cầm chén gọi trăng,
Xưa nay rằng cũng mấy vừng tỏ soi.
Kìa ai đạp tuyết tìm mai,
Lục bào kim đái nở chồi gấm xuân.
Kìa ai xa lánh cõi trần,
Ba căn hải ốc, mấy lần tang thương.
Kìa ai mến cảnh Tiêu Tương,
Lênh đênh một lá, dọc ngang năm hồ.
Kìa ai thích chí ngao du,
Nhà..(?) ngạch hở, bạch câu nước dồn.
Thảnh thơi khách hứng nước non,
Thông reo thế địch, suối tuôn tạm đờn.
Thiên thai người khéo lang đang,
Dạ lăm cắp núi, chí toan vá trời.
Rộng thênh đường thế mặc ai,
Ngụ trong bốn thú gác ngoài một thơ.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đào Duy Từ » Tư Dung vãn