26/03/2023 04:32Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Thể thơ: Ngũ ngôn bát cú; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Trung Đường
Đăng bởi Vanachi vào 20/02/2006 08:53

Nguyên tác
天地英雄氣,
千秋尚凜然。
勢分三足鼎,
業復五銖錢。
得相能開國,
生兒不象賢。
淒涼蜀故妓,
來舞魏宮前。
Phiên âm
Thiên địa anh hùng khí,
Thiên thu thượng lẫm nhiên.
Thế phân tam túc đỉnh[1],
Nghiệp phục ngũ châu tiền[2].
Ðắc tướng[3] năng khai quốc,
Sinh nhi bất tượng hiền.
Thê lương Thục cố kỹ,
Lai vũ Nguỵ cung[4] tiền.Dịch nghĩa
Khí anh hùng ngài còn ở trong trời đất,
Ngàn thu sau phải còn khiến người ta kính sợ.
Khi ấy thế nước chia làm ba phần, giống như ba chân vạc;
Đã khôi phục nghiệp đế, đem lại thời đại tiền Ngũ châu.
Đã tìm được vị thừa tướng có tài mở nước,
Nhưng sinh phải đứa con (Lưu Thiện) không có tài đức giống mình.
Những nàng kỹ nữ xưa của nước Thục nay phải héo hắt, đau thương,
Đến múa trước cung Nguỵ.Bản dịch của Trần Trọng San
Anh khí bao trùm trời đất rộng,
Oai linh còn mãi đến ngàn sau.
Dư đồ chia rõ ba chân vạc,
Cơ nghiệp đem về tiền Ngũ châu.
Tìm tướng, mở mang cho nước được;
Sinh con, tài giỏi giống cha đâu!
Ngậm ngùi, kỹ nữ trong cung Thục,
Cung Ngụy giờ đây đến múa hầu.
Thục tiên chủ tức Lưu Bị, vua nước Thục thời Tam Quốc.
[1] Ba nước Thục, Ngụy, Ngô ví như ba chân vạc.
[2] Thời Hán Vũ đế thuở trước.
[3] Chỉ Khổng Minh. Lưu Bị là dòng dõi tôn thất nhà Hán, cầu được Khổng Minh làm thừa tướng giúp dựng nước.
[4] Nói đến việc Thục Hậu Chủ Lưu Thiện bị mất nước về triều Nguỵ.