19/04/2024 10:50Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tặng Tô tứ Hề
贈蘇四徯

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 08/03/2015 00:15

 

Nguyên tác

異縣昔同遊,
各云厭轉蓬。
別離已五年,
尚在行李中。
戎馬日衰息,
乘輿安九重。
有才何棲棲,
將老委所窮。
為郎未為賤,
其奈疾病攻。
子何面黧黑,
不得豁心胸。
巴蜀倦剽掠,
下愚成土風。
幽薊已削平,
荒徼尚彎弓。
斯人脫身來,
豈非吾道東。
乾坤雖寬大,
所適裝囊空。
肉食哂菜色,
少壯欺老翁。
況乃主客間,
古來逼側同。
君今下荊揚,
獨帆如飛鴻。
二州豪俠場,
人馬皆自雄。
一請甘饑寒,
再請甘養蒙。

Phiên âm

Dị huyện tích đồng du,
Các vân yếm chuyển bồng.
Biệt ly dĩ ngũ niên,
Thượng tại hành lý trung.
Nhung mã nhật suy tức,
Thừa dư an cửu trùng.
Hữu tài hà thê thê,
Tương lão uỷ sở cùng.
Vi lang vị vi tiện,
Kỳ nại tật bệnh công.
Tử hà diện lê hắc,
Bất đắc khoát tâm hung.
Ba Thục quyện phiếu lược,
Hạ ngu thành thổ phong.
U Kế dĩ tước bình,
Hoang triệt thượng loan cung.
Tư nhân thoát thân lai,
Khởi phi ngô đạo đông.
Càn khôn tuy khoan đại,
Sở thích trang nang không.
Nhục thực sẩn thái sắc,
Thiếu tráng khi lão ông.
Huống nãi chủ khách gián,
Cổ lai bức trắc đồng.
Quân kim há Kinh, Dương,
Độc phàm như phi hồng.
Nhị châu hào hiệp trường,
Nhân mã giai tự hùng.
Nhất thỉnh cam cơ hàn,
Tái thỉnh cam dưỡng mông.

Dịch nghĩa

Khi xưa cùng đi chơi các huyện lạ,
Tất cả cùng nói rằng ngại cảnh bồng bềnh.
Chia tay đã năm năm rồi,
Vẫn còn mang theo trên đường.
Chiến tranh ngày lắng dần,
Theo xe để phò nhà vua.
Có tài mà sao lận đận đến thế,
Tới già chịu cảnh khốn cùng.
Làm quan nhưng chưa đến nỗi hèn,
Sao mà lại bị tật bệnh hành hạ.
Anh đâu có phải là kẻ mặt đen,
Không thể nào tỏ bày lòng mình.
Chán với cảnh cướp bóc ở Ba Thục,
Hoà mình với lớp người dưới theo phong tục địa phương.
Vùng U Châu, Kế Châu đã không yên,
Nơi vùng hoang đó còn cung tên.
Anh chàng này trốn thoát về,
Đường của ta đâu phải là về hướng đông.
Đất trời tuy bát ngát,
Nhưng cái điều thích ý của mình là mang túi rỗng.
Ăn thịt tất mỉa mai màu rau,
Giới trẻ coi thường người già.
Huống chi là chủ khách xa cách nhau,
Cố sát gần, xưa nay đều vậy.
Nay anh xuống vùng Kinh Châu và Dương Châu,
Một cánh buồm trơ vơ bay như con chim hồng.
Hai châu này là đất của người hào hiệp,
Cả người và ngựa đều tự lớn mạnh lên.
Điều cầu mong thứ nhất là ông chịu được nỗi đói rét,
Và lại xin ông yên lòng nuôi dưỡng cái ngây thơ của mình.

Bản dịch của Phạm Doanh

Xưa huyện lạ ta cùng du lãm,
Ai cũng cho là ngán bồng bềnh.
Năm năm xa cách thật nhanh,
Thế mà còn mãi trong hành trang đây.
Loạn lạc may đến ngày lắng xuống,
Theo xe về cùng đấng cửu trùng.
Có tài mà lại long đong,
Tới già còn mãi trong vòng lao đao.
Đã làm quan nhưng nào đốn mạt,
Mà sao lại bệnh tật làm phiền.
Mặt ông nào có sắc đen,
Làm sao mổ bụng cho xem trong lòng.
Nơi Ba Thục chán vòng cướp bóc,
Náu mình làm dân gốc quê mùa.
U Kế gặp lúc can qua,
Cung tên ngay chốn hoang vu còn đầy.
Ông này thân về đây được thoát,
Đường ta há phải giạt sang đông.
Đất trời lớn rộng một vùng,
Nhưng tính lại thích túi không một đồng.
Ăn thịt tất coi thường rau cỏ,
Bọn trẻ thì coi nhẹ tóc râm.
Huống chi chủ khách cách ngăn,
Xưa nay lại cứ muốn gần thế thôi.
Nay Kinh, Dương ông xuôi tới đó,
Như hồng bay, buồm lẻ toả ra.
Hai châu, ấy chốn hào hoa,
Người ngựa đều biết lối mà vươn lên.
Một xin đói rét chẳng sờn,
Hai xin nuôi dưỡng vẹn tròn u mê.
(Năm 767)

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Tặng Tô tứ Hề