28/03/2024 23:26Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Vịnh Bắc sử Tô Tần
詠北史蘇秦

Tác giả: Nguyễn Phúc Ưng Bình - 阮福膺苹

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Cận đại
Đăng bởi hảo liễu vào 17/01/2015 19:56

 

Nguyên tác

十上秦書已厭遲,
歸來行色正堪悲。
全家若顧囊空日,
六國終無印配時。
側耳蓬門妻自悔,
傾身柳路嫂何癡。
炎涼世態都如是,
史載惟君事更奇。

Phiên âm

Thập thướng Tần thư dĩ yếm trì,
Quy lai hành sắc chánh kham bi.
Toàn gia nhược cố nang không nhật,
Lục quốc[1] chung vô ấn bội thì.
Trắc nhĩ bồng môn[2] thê tự hối,
Khuynh thân liễu lộ[3] tẩu hà si.
Viêm lương thế thái đô như thị,
Sử tái duy quân sự cánh kỳ.

Dịch nghĩa

Dâng mười kế cho vua Tần, đợi lâu đã chán nản
Về quê với nỗi buồn trong lòng
Nếu như gia đình đoái hoài lúc lận đận
Rốt cuộc cũng chẳng làm được chuyện gì trong sáu nước
Trong gian nhà tranh, nghiêng tai lắng nghe vợ than thở
Bên đường nhỏ hẹp, chị dâu tránh mặt quay đi
Cuộc đời mặn nhạt nóng lạnh tình đời đều như thế cả
Sử ghi nhiều chuyện, chuyện của ông càng lạ kỳ hơn

Bản dịch của Nguyễn Hữu Vinh

Dâng Tần uổng kế chán chường trông
Về lại quê xưa nặng nỗi lòng
Nếu được tình nhà khi lận đận
Thì đâu danh vọng hết long đong
Nhà nghèo lẳng lặng nàng than thở
Lối hẹp làm lơ chị lạnh lùng
Mặn nhạt mùi đời muôn thế vậy
Sử nhiều chuyện lạ lạ thua ông
Tô Tần là một chiến lược gia, thuyết gia nổi tiếng, người Lạc Dương thời Chiến Quốc, lúc đầu sang Tần bày chước chống sáu nước Sở, Yên, Triệu, Nguỵ, Hàn, Tề. Vua Tần không nghe. Sau quay sang Triệu, bàn kế "Hợp tung" là kế liên kết sáu nước này chống lại Tần. Lúc còn lận đận, về nhà vợ quay mặt, chị dâu làm lơ. Sau được sáu nước này phong chức tể tướng, về thăm nhà được vợ con, anh chị đón tiếp niềm nở. Các cụ ngày xưa hay dùng tích này để chỉ thói đời đen bạc. "Chinh phụ ngâm khúc" 征婦吟曲 của Đăng Trần Côn có:
Thiếp phi Tô gia si tâm phụ
Quân diệc Lạc Dương hảo nam nhi
Quy lai thảng bội hoàng kim ấn
Khẳng học đương niên bất há ky
妾非蘇家痴心婦
君亦洛陽好男兒
歸來倘佩黃金印
肯學當年不下機
(Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ
Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương
Khi về đeo quả ấn vàng
Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao)

[1] Trung Quốc trong thời Chiến Quốc chia thành sáu nước, gồm Tề, Sở, Hàn, Nguỵ, Yên, Triệu.
[2] Lấy ý từ "Bồng môn tất hộ" 蓬門蓽戶, nghĩa là nhà cửa lợp bằng cỏ, chỉ nhà nghèo.
[3] Đường nhỏ hẹp ngoằn ngoèo.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Phúc Ưng Bình » Vịnh Bắc sử Tô Tần