05/05/2024 07:56Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Đáo Đệ Tứ đồ
到第四闍

Tác giả: Vũ Duy Thiện - 武維善

Thể thơ: Thất ngôn bát cú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 18/12/2019 16:16

 

Nguyên tác

相傳自古有軍營,
天屬為名半萬兵。
四隊時常留不改,
平分水陸幾番靈。
生防莫敢離屯住,
死戰誰收置石銘。
瓦礫人言陳代事,
孤魂並立望無更。

Phiên âm

Tương truyền tự cổ hữu quân doanh,
Thiên Thuộc vi danh bán vạn binh[1].
Tứ đội thời thường lưu bất cải,
Bình phân thuỷ lục kỷ phiên linh.
Sinh phòng mạc cảm ly đồn trú,
Tử chiến thuỳ thu trí thạch minh.
Ngoã lịch nhân ngôn Trần đại sự,
Cô hồn tịnh lập vọng vô canh.

Dịch nghĩa

Tương truyền nơi đây thuở trước có quân doanh,
Với tên Thiên Thuộc ước nửa vạn người.
Đội bốn thời thường trú ngụ không biến cải,
Chia làm thuỷ lục từng bao lần lập công hiển hách.
Khi sống dám nói rằng dời bỏ nơi đồn trú,
Qua cuộc chiến tranh chết đi ai vì thu nhặt xác tàn.
Phế tích gạch ngói đây phương dân nói là việc cũ thời Trần,
Các nơi đền miếu dựng thờ cô hồn mong rằng chớ hề thay đổi.

Bản dịch của Dương Văn Vượng

Tương truyền thuở trước có quân doanh
Thiên Thuộc là tên nửa vạn binh
Đội bốn thời thường luôn trấn giữ
Chia đôi thuỷ lục cậy yên lành
Người còn nào dám quên phòng thủ
Xương vãi ai thu việc chiến tranh
Phế tích thời Trần dân vẫn nóiC
Ô hồn các miếu nhớ đinh ninh.
Bài thơ chép trong Lịch Đại An dân ký. Đệ Tứ đô là cửa Đệ Tứ, tên cũ chùa Đệ Tứ hiện nay. Chữ “đô” còn nghĩa là cái lầu canh xây ở trên thành.

[1] Nguyên chú của tác giả: “Bốn đạo quân Thiên Thuộc có ước 5.000, Đệ Tứ thường có 2.000 thì 1.000 là thuỷ chiến. Vào thời chống Nguyên, rồi đến chống Minh vẫn còn được biên chế đầy đủ, nhưng thường lúc đã tận diệt. Nay là bốn ngôi chùa ở Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ.”

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Vũ Duy Thiện » Đáo Đệ Tứ đồ