20/04/2024 18:44Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Tài tử đa cùng phú

Tác giả: Cao Bá Quát - 高伯适

Thể thơ: Phú; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 29/05/2006 08:10

 

Có một người:
Khổ dạng trâm anh[1];
Nết na chương phủ[2].

Hoi miệng sữa tuổi còn giọt máu, nét hào hoa chừng ná Tân, Dương[3]!
Chòm tóc xanh vừa chấm ngang vai, lời khí khái hẹn hò Y, Phó[4].

Nghiêng gợn sóng vẽ vời điển tịch, nét nhạn điểm lăn tăn!
Bút vén mây dìu dặt văn chương, vòng thuyền khuyên lỗ chỗ.

Nghiêng cánh nhạn tếch mái rừng Nhan, Khổng[5], chí xông pha nào quản chông gai!
Cựa đuôi kình toan vượt bể Trình, Chu[6], tài bay nhẩy ngại gì lao khổ!

Lắc bầu rượu dốc nghiêng non nước lại, chén tiếu đàm mời mọc Trích Tiên[7];
Hóng túi thơ nong hết gió trăng vào, cơn xướng hoạ thì thầm Lão Đỗ[8].

Tươi nét mặt thư sinh lồ lộ, bưng mặt trần toan đạp cửa phù đồ;
Rửa buồng gan du tử nhơn nhơn, giương tay Tạo rắp xoay cơn khí số.

Tưởng đến khi vinh hiển coi thường;
Song nghĩ lại trần ai đếch chỗ.

Lều nho nhỏ kéo tấm tranh lướp tướp, ngày thê lương hạt nặng giọt mưa sa;
Đèn cỏn con co chiếc chiếu loi thoi, đêm tịch mịch soi chung vừng trăng tỏ.

Áo Trọng Do[9] bạc phếch, giãi xuân thu cho đượm sắc cần lao;
Cơm Phiếu Mẫu[10] hẩm sì, đòi tuế nguyệt phải ngậm mùi tân khổ.

Gió trăng rơi rụng, để cái quyên gầy;
Sương tuyết hắt hiu, làm con nhạn võ.

Túi thanh bạch ngược xuôi miền khách địa, trăm nghìn đường chỉ nhện dệt thưa mau;
Đèn toan hàn[11] thức nhắp mái nam song, dăm ba ngọn lửa huỳnh[12] khêu nho nhỏ.

Miệng châu quế rì rầm học vấn, chị chú Tô[13] cẳn nhẳn chỉ hiểm nghèo;
Vai tân sài đủng đỉnh ngâm nga, vợ anh Mãi[14] băn khoăn từng kể khó.

Đói rau rừng, thấy thóc Chu mà trả, đá Thú Dương chơm chởm, xanh mắt Di[15] nằm tót gáy o o;
Khát nước sông, trông dòng đục không vơ, phao Vị Thuỷ lênh đênh, bạc đầu Lã[16] ngồi dai ho lụ khụ.

Trông ra nhấp nhố sóng nhân tình;
Ngoảnh lại vật vờ mây thế cố.

Ngán nhẽ kẻ tham bề khoá lợi[17], mũ cánh chuồn đội trên mái tóc, nghiêng mình đứng chực cửa hầu môn;
Quản bao người mang cái giàm danh[18], áo giới lân trùm dưới cơ phu, mỏi gối quỳ mòn sân tướng phủ.

Khéo ứng thù những đám quan trên;
Xin bái ngảnh cùng anh phường phố.

Khét mùi thế vị chẳng thà không!
Thơm nức phương danh nên mới khổ.

Tình uốn éo muốn vạch trời lên hỏi, nào kiếp Chử Đồng[19] đâu tá, nỡ hoài chén ngọc để trần ai;
Trí lăng nhăng toan vượt bể đi tu, hỏi quê Tiên tử nơi mô, xin lĩnh lấy vân đan làm tế độ[20].

Bài phú Dương Hùng[21] dù nghiệm tá, thì xin tống bần quỷ ra đến miền Đông Hải, để ta đeo vòng thư kiếm, quyết xoay bạch ốc lại lâu đài;
Câu văn Hàn Dũ[22] phỏng thiêng chăng, thì xin tống cùng thần ra đến đất Côn Lôn, để ta gánh vác giang sơn, quyết ném thanh khâm[23] sang cẩm tú[24].

Nhọc nhằn cơn nhục, mát cơn vinh;
Cay đắng lúc cùng, bùi lúc phú.

Vậy có lời nôm dặn bảo thế gian rằng:
Đừng thấy người bạch diện thư sinh;
Mà cười rằng “đa cùng tài tử”.
[1] Cái gài tóc và dải mũ, chỉ nhà thế gia.
[2] Một loại mũ bằng vải thô màu đen có từ thời nhà Ân. Khổng Tử thường đội loại mũ này khi ở Tống. Ở đây dùng để chỉ chung nhà Nho.
[3] Lạc Tân Vương và Dương Quýnh, hai thi nhân có tiếng đời Đường.
[4] Y Doãn và Phó Duyệt, hai chính khách có tài trị nước, yên dân đời Thương.
[5] Nhan Hồi và Khổng Tử. Nhan Hồi tức Nhan Uyên, là học trò của Khổng Tử.
[6] Trình Di, Trình Hạo và Chu Hy phái Nho học đời Tống, phát triển và bổ sung phần vũ trụ quan cho Nho học cổ đại.
[7] Tự của Lý Bạch. Sách Đường thư chép Lý Bạch đến Trường An, thăm Hạ Chi Chương. Chương xem văn ông ta mà khen rằng: ngài là người cõi tiên bị đày xuống trần (trích tiên). Về sau, người đời thường gọi ông là Trích Tiên.
[8] Tức Đỗ Phủ. Người đời sau gọi ông là Lão Đỗ để phân biệt với Đỗ Mục là Tiểu Đỗ.
[9] Tức Tử Lộ, học trò của Khổng Tử. Khổng Tử từng nói: “Ý tệ uẩn bào, dữ ý hồ lạc giả lập, nhi bất sỉ dã, kỳ Do dã dư” (Mặc áo vải gai rách, cùng đứng với người mặc áo cừu, mà không hổ thẹn, là Do vậy u?).
[10] Hàn Tín thuở hàn vi đi câu dưới thành, một hôm đói gặp một bà cụ già giặt quần áo thuê (phiếu mẫu), thương tình cho ông một bữa cơm. Sau Hàn Tín giúp Lưu Bang làm đến Tề vương, tạ ơn bà một ngàn lạng vàng.
[11] Quá ư nghèo khó.
[12] Lấy ánh sáng đom đóm làm đèn. Xa Dận nhà nghèo bắt đom đóm cho vào vỏ trứng lấy ánh sáng học đêm.
[13] Tô Tần thời Đông Chu đi du thuyết các nước chư hầu thất bại, trở về vẫn đói rách, người chị dâu khinh bỉ không nấu cơm cho ăn.
[14] Chu Mãi Thần vai gánh củi (tân sài) miệng đọc sách, vợ bỏ vì không chịu được cảnh nghèo khó.
[15] Bá Di đời Ân khi Vũ Vương dấy quân đánh Trụ, ông giằng cương ngựa can ngăn không được. Trụ mất nước, Vũ Vương lập nhà Chu, Bá Di cùng em là Thúc Tề không ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi Thú Dương hái rau vi ăn thay cơm rồi chết đói ở đó.
[16] Lã Vọng tức Khương Tử Nha nhà nghèo, làm các nghề vặt kiếm sống nhưng nhiều lần thất bại. Vợ kèo nhèo, ông nói: người ta dù khát cũng không uống nước sông đục. Ông thường ngồi câu cá trên sông Vị Thuỷ, sau giúp Vũ Vương khởi nghiệp lập ra nhà Chu, lúc ông đã ngoài tám mươi.
[17, 18] Khoá lợi, giàm danh: danh lợi trói buộc người ta như cái khoá và cái dây buộc mõm ngựa.
[19] Tức Chử Đồng Tử, người thời vua Hùng. Tương truyền, Chử Đồng nhà nghèo không có khố che thân, thường đi đánh giặm, hễ gặp người thì nằm xuống lấy cát phủ lên người. Tình cờ một hôm công chúa Tiên Dung đi du ngoạn rồi vây màn tắm ngay chỗ chàng náu mình. Tiên Dung cho là có duyên tiền định nên kết duyên cùng chàng.
[20] Dùng thuốc tiên chế bằng cây vân hương thay cho phép Phật để cứu vớt chúng sinh vượt qua bể khổ.
[21] Dương Hùng có bài phú Trục bần đuổi con quỷ nghèo ra biển đông.
[22] Hàn Dũ có bài văn Tống cùng tiễn thần nghèo ra đảo Côn Lôn.
[23] Áo xanh, xưa Nho sinh thường mặc.
[24] Gấm vóc, chỉ người Nho sinh đã có danh phận.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Cao Bá Quát » Tài tử đa cùng phú