26/04/2024 10:37Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Mạnh đông hàn khí chí
孟冬寒氣至

Tác giả: Khuyết danh Trung Quốc

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Hán
Đăng bởi Vanachi vào 25/10/2008 23:28

 

Nguyên tác

孟冬寒氣至,
北風何慘慄。
愁多知夜長,
仰觀眾星列。
三五明月滿,
四五蟾兔缺。
客從遠方來,
遺我一書札。
上言長相思,
下言久離別。
置書懷袖中,
三歲字不滅。
一心抱區區,
懼君不識察。

Phiên âm

Mạnh đông[1] hàn khí[2] chí,
Bắc phong hà thảm lật.
Sầu đa tri dạ trường,
Ngưỡng quan chúng tinh liệt.
Tam ngũ[3] minh nguyệt mãn,
Tứ ngũ[4] thiềm thố[5] khuyết.
Khách tòng viễn phương lai,
Di ngã nhất thư trát[6].
Thượng ngôn “trường tương tư”,
Hạ ngôn “cửu ly biệt”.
Trí thư hoài tụ trung,
Tam tuế tự bất diệt.
Nhất tâm bão khu khu,
Cụ quân bất thức sát.

Bản dịch của Điệp luyến hoa

Mạnh đông hơi lạnh tới,
Gió bắc thảm thiết thay.
Tâm sầu, đêm dài bấy,
Ngẩng nhìn sao xếp bày.
Mười lăm trăng tròn trịa,
Hai mươi lại khuyết dài.
Khách từ phương xa tới,
Đưa ta một tấm thư.
Trước nói “hoài nhung nhớ”,
Sau đề “hận biệt ly”.
Thư cất trong tay áo,
Ba năm chữ vẫn y.
Một tấm lòng tha thiết,
Chỉ e chàng không hay.
Đây là bài thứ 17 trong Cổ thi thập cửu thủ, biểu thị niềm hoài niệm của người cô phụ có chồng đi xa. Sáu câu đầu miêu tả sự cô đơn lạnh lẽo khi mùa đông đến, người cô phụ giấc không thành, dùng trăng tròn khuyết tượng trưng cho thời gian trôi và sự ly hợp. Bốn câu tiếp theo chuyển sang cảnh giới hoàn toàn khác, về lá thư người chồng gửi từ ba năm trước. Bốn câu cuối bày tỏ sự trân trọng với tình cảm của người đi xa. Bài thơ có cấu trúc uyển chuyển, khúc chiết, lời lẽ sâu đậm.

[1] Tháng đầu tiên của mùa đông, tức tháng 10 âm lịch.
[2] Tức gió bắc thổi.
[3] Tức ngày mười lăm của tháng. (3×5 = 15)
[4] Tức ngày hai mươi của tháng. (4×5 = 20)
[5] Tương truyền trên cung trăng có con cóc (thiềm thừ) và thỏ ngọc (ngọc thố).
[6] Thư ở đây là thư của chồng gửi.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Khuyết danh Trung Quốc » Mạnh đông hàn khí chí