27/04/2024 06:43Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Vương binh mã sứ nhị giác ưng
王兵馬使二角鷹

Tác giả: Đỗ Phủ - 杜甫

Thể thơ: Thất ngôn cổ phong; Nước: Trung Quốc; Thời kỳ: Thịnh Đường
Đăng bởi tôn tiền tử vào 01/03/2015 23:26

 

Nguyên tác

悲臺蕭颯石巃嵷,
哀壑杈椏浩呼洶。
中有萬里之長江,
回風滔日孤光動。
角鷹翻倒壯士臂,
將軍玉帳軒翠氣。
二鷹猛腦徐侯穟,
目如愁胡視天地。
杉雞竹兔不自惜,
溪虎野羊俱辟易。
韝上鋒稜十二翮,
將軍勇銳與之敵。
將軍樹勳起安西,
崑崙虞泉入馬蹄。
白羽層肉三狻猊,
敢決豈不與之齊。
荊南芮公得將軍,
亦如角鷹下翔雲。
惡鳥飛飛啄金屋,
安得爾輩開其群,
驅出六合梟鸞分。

Phiên âm

Bi đài tiêu táp thạch lũng tũng,
Ai hác xoa nha hạo hô hủng.
Trung hữu vạn lý chi trường giang,
Hồi phong thao nhật cô quang động.
Giác ưng phiên đảo tráng sĩ tí,
Tướng quân ngọc trướng hiên thuý khí.
Nhị ưng mãnh não từ hầu tị,
Mục như sầu Hồ[1] thị thiên địa.
Sam kê trúc thố bất tự tích,
Khê hổ dã dương câu tịch dịch.
Câu thượng phong lăng thập nhị phiên,
Tướng quân dũng duệ dữ chi địch.
Tướng quân thụ huân khởi An Tê (Tây),
Côn Luân Ngu tuyền nhập mã đề.
Bạch vũ tằng nhục tam toan nghê[2],
Cảm quyết khởi bất dữ chi tề.
Kiếm Nam Nhuế công đắc tướng quân,
Diệc như giác ưng há tường vân.
Ác điểu phi phi trác kim ốc,
An đắc nhữ bối khai kỳ quần.
Khu xuất lục hợp kiêu loan phân.

Dịch nghĩa

Trên cái nền xây ảo não đá lởm chởm,
Hang buồn cành cây kêu xào xạc.
Trong vùng con sông dài vạn dặm uốn quanh,
Gió lốc cả ngày, làm rung ánh trời.
Con chim ưng có sừng kia đậu trên tay người lính tráng kiện cứ ngọ ngoạy,
Ông tướng nơi trướng ngọc trang hoàng xanh biếc đầy vẻ uy nghi.
Chim ưng hai sừng, với bộ óc hùng mạnh khoan thai trên nóc bia bắn,
Cặp mắt giống như của người Hồ buồn nhìn đất trời.
Gà trên cây sam, thỏ nơi bụi trúc không biết tiếc,
Hổ nơi khe, dê nơi ruộng đều trốn chạy.
Trên cánh tay, chim ưng có mười hai lông vũ nơi chỏm nhọn kia,
Tướng quân hùng dũng ban hiệu lệnh cho ra đối địch.
Tướng quân gây dựng công lao khởi đầu từ vùng An Tây,
Vó ngựa vào suối Ngu nơi vùng Côn Luân.
Có vũ khí sắc bén đâm thấu ba tầng áo giáp,
Quyết chí há không cho ra đọ sao.
Vùng Kinh Nam thuộc đất Nhuế công có được tướng quân,
Y hệt như chim ưng có sừng lượn trên từng mây.
Các chim dữ bay quanh mổ nhà vàng,
Mong sao nhờ được bọn chim ưng có sừng này bay ra hoạt động,
Đuổi khỏi vùng trời và phân biệt đâu xấu như chim kiêu với tốt như chim loan.

Bản dịch của Phạm Doanh

Gió rít đài cao đá cả tảng,
Hang buồn cành lá rung loạng quạng
Chính giữa con sông vạn dặm dài,
Suốt buổi gió cuồng rung ánh sáng.
Trên tay tráng sĩ, ưng lênh khênh,
Trướng ngọc tướng quân choáng hiên xanh.
Ưng hai sừng ngóng chờ nhào xuống,
Mắt chăm chắm nhìn khắp xung quanh.
Gà tre thỏ bụi chẳng tự lo,
Hổ suối dê đồng đều cố tránh.
Mười hai lông nhọn vểnh trên tay,
Tướng quân hùng dũng cho ra đánh.
Tướng quân sự nghiệp từ An Tây,
Suối Ngu Côn Luân vó ngựa dày.
Vũ khí từng đâm xuyên qua thịt,
Dứt khoát một phen thử sức ngay.
Kiếm Nam vùng Nhuế có tướng công,
Hệt như chim ưng bay trên không.
Mổ nát nhà vàng bày chim dữ,
Sao được các ông quyết một lòng,
Làm rõ trắng đen, sạch trên không.
(Năm 766)

[1] Người Hồ có hốc mắt sâu, khiến như có vẻ buồn, thường dùng tả mắt chim ưng, mượn từ bài phú về chim ưng của Tôn Sở 孫楚 (tự Tử Kinh, người đời Tây Tấn): "Thâm mục nga my, Trạng như sầu Hồ" 深目蛾眉,狀如愁胡 (Lông mày nơi mắt sâu thẳm, vẻ như người Hồ buồn).
[2] Thành ngữ: "Tam tằng toan nghê khải giáp" 三層狻猊鎧甲.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đỗ Phủ » Vương binh mã sứ nhị giác ưng