25/04/2024 07:13Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Phần 10
Часть 10

Tác giả: Rasul Gamzatov - Расул Гамзатов

Nước: Nga
Đăng bởi nguyenvanthiet vào 06/06/2007 05:24

 

Nguyên tác

91

Летят по небу голубые птицы.
Пытаюсь я их сосчитать с земли;
Две, три, четыре, десять, двадцать, тридцать…
Не досчитал, все расплылось вдали.

Как стая птиц, летят года за горы,
Я их считаю, провожая вдаль:
Два, три, четыре, десять, двадцать, сорок…
И не понять мне, стая велика ль.

92

И снова, снова черный ворон ищет
Жилье, откуда не выходит дым.
Как вестник смерти кружит над жилищем,
Покинутым хозяином своим.

О люди, пусть ваш дом достатком дышит,
Пусть озарят его покой и труд,
Пусть не кружится воронье над крышей,
Пусть ласточки над крышей гнезда вьют.

93

О нашем крае всем краям подлунным
Я, как хотелось, рассказать не мог,
С собой носил я полные хурджины,
Да вот беда - их развязать не мог.

И звонкой песни на родном наречье
Я о подлунном мире спеть не мог.
Я кованый сундук взвалил на плечи,
Но сундука я отпереть не мог.

94

Капли на щеки поэта упали.
На правой щеке его и на левой.
То капля радости, капля печали.
Слезинка любви и слезинка гнева.

Две маленькие капли, чисты и тихи,
Две капли бессильны, пока не сольются,
Но, слившись, они превратятся в стихи,
И молнией вспыхнут, и ливнем прольются.

95

Птицы, оперившись, улетают,
Прочь спешат из отчей стороны.
И порою люди умирают
Не на той земле, где рождены.

Человек живет и вдаль стремится,
Хочет он догнать свою мечту.
Так и умирает, словно птица,
Сердце надорвавши на лету.

96

Помню, я в чужом краю гостил,
Видел, как поэты состязались,
Как друг друга, не жалея сил,
Перепеть любой ценой старались.

Был мне непонятен этот спор.
Что за блажь перепевать друг друга!
Сильному уступишь - не позор,
Слабого осилишь - не заслуга.

97

Сперва тебя я другом называл,
Но был ты лишь лжецом себялюбивым,
Потом, что ты мне враг, я полагал,
Ты оказался подлецом трусливым.

Ну что ж, не плачу я, судьбу кляня,
С тобой не знаясь нынче, как бывало.
На свете, слава богу, у меня
И без твоей вражды врагов немало!

98

Оставьте одного меня, молю,
Устал я от дороги и от шума,
Я на траве, как бурку, расстелю
Свою заветную мечту и думу.

О люди, подойдите же ко мне,
Возьмите в путь, - я никогда не думал,
Что будет страшно так наедине
С моей мечтой, с моей заветной думой.

99

Однажды утром мать меня спросила:
«Сынок, скажи мне, быть ли вновь войне?
Я нынче слезы видела во сне,
Я слышу шум, я двери затворила».

«Не бойся, мама, этот шум иль шорох
Пускай твоих не беспокоит снов:
То жабы квакают в своих гнилых озерах
И напугать хотят степных орлов».

100

Люди, мы утром встаем и смеемся.
Разве мы знаем, что день нам несет?
День настает, мы клянем и клянемся;
Смотришь, и вечер уже у ворот.

Наши сокровища – силу и смелость –
День отнимает у нас, уходя…
И остается спокойная зрелость –
Бурка, надетая после дождя.

Bản dịch của Hồ Thượng Tuy

91

Một bầy chim bay lượn ở trên trời
Tôi cố đếm từng con từ mặt đất
Hai, ba, bốn, mười, hai mươi, ba mươi...
Không đếm hết, đàn chim bay đi mất.

Như bầy chim bay, năm tháng của tôi
Tôi đếm chúng rồi tiễn về sau núi:
Hai, ba, bốn, mười, hai mươi, bốn mươi...
Nhưng bầy lớn không thì tôi không hiểu nổi.

92

Lại một con quạ đen đang tìm kiếm
Một ngôi nhà không có khói bay lên
Như người mang tin chết chóc nguy hiểm
Rằng người chủ ngôi nhà đã đến cõi tiên.

Tôi mong cho sự đủ đầy, êm ấm
Vẻ bình yên, lao động chiếu muôn nhà
Cho trên mái nhà quạ không quanh quẩn
Cho chim én về làm tổ hát ca.

93

Tôi rất muốn kể về quê hương mình
Cho thế giới nghe nhưng không thể kể
Những chiếc hòm đầy tôi mang theo mình
Nhưng khốn nỗi  mở ra tôi không thể.

Những bài hát bằng ngôn ngữ của mình
Cho thế giới nghe, tôi không thể hát.
Tôi chất cái rương viền sắt lên lưng
Nhưng viền sắt thì tôi không mở được.

94

Trên má nhà thơ những giọt lệ tuôn
Cả bên phải, bên trái đều ướt đẫm.
Một giọt vui, lại một giọt buồn
Nước mắt yêu thương, nước mắt thù hận.

Hai giọt nhỏ sạch sẽ, lặng như tờ
Chúng bất lực một khi chưa thành mặn
Nhưng hợp lại và chúng biến thành thơ
Sấm chớp nổi lên, mưa rào trút xuống.

95

Chim đủ lông sổ lồng bay đi hết
Chim vội vàng bay khỏi đất ông cha.
Thời bây giờ con người ta cũng chết
ở xứ người, nơi không phải sinh ra.

Con người sống về miền xa khao khát
Cả cuộc đời theo đuổi một ước mơ
Thế rồi giống như con chim khi chết
Chỉ con tim khi bay bổng nhớ nhà.

96

ở miền xa, tôi nhớ, có một lần
Tôi từng thấy các nhà thơ đem đọ
Tài với nhau, họ không tiếc sức mình
Ráng nhại theo nhau dù bằng mọi giá.

Cuộc tranh luận này tôi không hiểu rõ
Nhại theo nhau qủa là ý ngông cuồng.
Nhường kẻ mạnh – chẳng có gì xấu hổ
Thắng kẻ hèn – không một chút vinh quang.

97

Ta gọi ngươi là bạn lúc ban đầu
Nhưng ngươi là kẻ không hề yêu người khác
Rồi ta nghĩ ngươi là kẻ thù lúc sau
Ngươi hoá ra là một tên hèn mạt.

Nhưng mà ta không khóc, chẳng trách đời
Rằng ta và ngươi không còn giao thiệp.
Lạy Thánh Ala, đối với ta trên đời
Dù thiếu ngươi kẻ thù còn không ít!

98

Xin để tôi một mình, tôi xin lạy
Tôi giờ đang mệt mỏi bởi đường dài
Trên cỏ hoa như áo buốc-ca tôi cởi
Những nghĩ suy và mơ ước của tôi.

Xin hãy cho tôi đến với mọi người
Cho tôi đi – chưa bao giờ tôi nghĩ
Rằng thật khủng khiếp khi chỉ mình tôi
Với ước mơ, với những điều suy nghĩ.

99

Có một lần, buổi sáng, mẹ hỏi tôi:
"Con trai ơi, liệu chiến tranh còn nữa
Trong giấc mơ mẹ thấy nước mắt rơi
Nghe tiếng động và mẹ đem khoá cửa".

Tôi trả lời: "Mẹ đừng lo tiếng động
Trong giấc mơ, đừng phiền muộn, băn khoăn
Đấy là tiếng cóc trong hồ nước bẩn
Ộp oạp kêu lên đòi doạ đại bàng".

100

Mỗi buổi sáng ta thức dậy mỉm cười
Ngày ra sao ta biết gì đâu chứ
Ngày đến đây ta thề thốt, trách ngày
Ngước nhìn lên chiều đã về bên cửa.

Báu vật của ta – sức mạnh, lòng can đảm
Ngày gom vào rồi mang nó đi xa
Chỉ còn lại sự trưởng thành trầm lắng
Áo buốc-ca dùng để mặc sau mưa.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Rasul Gamzatov » Phần 10