19/04/2024 18:45Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Cung oán ngâm khúc

Tác giả: Nguyễn Gia Thiều - 阮嘉韶

Thể thơ: Song thất lục bát; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi Vanachi vào 26/08/2005 16:45

 

1. Trải vách quế[1] gió vàng[2] hiu hắt,
Mảnh vũ y[3] lạnh ngắt như đồng;
Oán chi những khách tiêu phòng[4],
Mà xui phận bạc nằm trong má đào!
5. Duyên đã may cớ sao lại rủi?
Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang?
Vì đâu nên nỗi dở dang,
Nghĩ mình, mình lại thêm thương nỗi mình!

Trộm nhớ thuở gây hình tạo hoá[5],
10. Vẻ phù dung[6] một đoá khoe tươi;
Nhuỵ hoa[7] chưa mỉm miệng cười,
Gấm nàng Ban[8] đã lạt mùi thu dung.
Áng đào kiểm[9] đâm bông não chúng,
Khoé thu ba[10] dợn sóng khuynh thành[11].
15. Bóng gương lấp ló trong mành[12],
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa[13]!
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn[14],
Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa!
Hương trời đắm nguyệt say hoa,
20. Tây Thi[15] mất vía, Hằng Nga[16] giật mình.
Câu cẩm tú[17] đàn anh họ Lý[18],
Nét đan thanh[19] bậc chị chàng Vương[20].
Cờ tiên rượu thánh ai đang,
Lưu Linh[21], Đế Thích[22] là làng tri âm[23].
25. Cầm điếm nguyệt, phỏng tầm Tư Mã[24],
Địch lầu thu, đọ gã Tiêu lang[25].
Dẫu mà tay múa miệng xang[26],
Thiên tiên cũng xếp nghê thường trong trăng[27].

Tài sắc đã vang lừng trong nước,
30. Bướm ong càng xao xác ngoài hiên.
Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn,
Bệnh Tề Tuyên[28] đã nổi lên đùng đùng.
Hoa xuân nọ còn phong nộn nhị,
Nguyệt thu kia chưa hé hàn quang.
35. Hồng lâu còn khoá then sương,
Thâm khuê còn giấm mùi hương khuynh thành[29].
Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ[30],
Khách công hầu gấm ghé[31] mong sao[32].
Vườn xuân bướm hãy còn rào,
40. Thấy hoa mà chẳng lối vào tìm hương.
Gan chẳng đá khôn đường há chuyển[33],
Mặt phàm kia dễ đến Thiên Thai[34]?
Hương trời sá động trần ai,
Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười một khi[35].
45. Ngẫm nhân sự cớ gì ra thế?
Sợi xích thằng[36] đâu để vướng chân.
Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,
Nước dương[37] muốn rẩy nguội dần lửa duyên.
Kìa thế cục như in giấc mộng,
50. Máy huyền vi mở đóng khôn lường!
Vẻ chi ăn uống sự thường,
Cũng còn tiền định[38] khá thương lọ là.
Đòi những kẻ thiên ma bách chiết,
Hình thì còn bụng chết đòi nau!
55. Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra!
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,
Ai bày trò bãi bể nương dâu[39]?
Trắng răng đến thuở bạc đầu,
60. Tử, sinh, kinh, cụ làm nau mấy lần?
Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc,
Lớp cùng thông như đúc buồng gan.
Bệnh trần đòi đoạn[40] tâm can,
Lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da!

65. Gót danh lợi bùn pha sắc xám,
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu.
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ[41], bèo đầu bến mê[42].
Mùi tục vị[43] lưỡi tê tân khổ,
70. Đường thế đồ gót rỗ khi khu.
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh[44] lô xô mặt ghềnh[45].
Trẻ tạo hoá[46] đành hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn[47] mà chơi!
75. Lò cừ[48] nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu[49] vẽ người tang thương.
Đền vũ tạ nhện giăng cửa mốc,
Thú ca lâu dế khóc canh dài,
Đất bằng bỗng rấp chông gai,
80. Ai đem nhân ảnh nhuốm màu tà dương?
Mồi phú quý nhử làng xa mã,
Bả vinh hoa lừa gã công khanh,
Giấc Nam Kha[50] khéo bất tình[51],
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không!
85. Sân đào lý[52] mây lồng man mác,
Nền đỉnh chung[53] nguyệt gác mơ màng.
Cánh buồm bể hoạn mênh mang,
Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh.
Quyền hoạ phúc trời tranh mất cả,
90. Chút tiện nghi chẳng trả phần ai!
Cái quay[54] búng sẵn lên trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.
Hình mộc thạch vàng kim ố cổ,
Sắc cầm ngư ủ vũ ê phong.
95. Tiêu điều nhân sự đã xong,
Sơn hà cũng ảo, côn trùng cũng hư.
Cầu thệ thuỷ[55] ngồi trơ cổ độ,
Quán thu phong[56] đứng rũ tà huy.
Phong trần đến cả sơn khê,
100. Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.
Tuồng ảo hoá đã bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau!
Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nấm cổ khâu[57] xanh rì.
105. Mùi tục luỵ dường kia cay đắng,
Vui chi mà đeo đẳng trần duyên?
Cái gương nhân sự chiền chiền,
Liệu thân này với cơ thiền phải nao.
Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật,
110. Mối thất tình[58] quyết dứt cho xong.
Đa mang chi nữa đèo bòng?
Vui gì thế sự mà mong nhân tình!
Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,
Mượn hoa đàm[59] đuốc tuệ[60] làm duyên.
115. Thoắt trần một gót thiên nhiên,
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.
Ý cũng rắp ra ngoài đào chú[61],
Quyết lộn vòng phu phụ cho cam!
Ai ngờ trời chẳng cho làm,
120. Quyết đem dây thắm mà giam bông đào!

Hẳn túc trái làm sao đây tá?
Hay tiền nhân[62] hậu quả xưa kia?
Hay thiên cũng có điều gì?
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi.
125. Kìa điểu thú là loài vạn vật,
Dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng,
Có âm dương, có vợ chồng[63],
Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê.
Đường tác hợp trời kia run rủi[64],
130. Trốn làm sao cho khỏi nhân tình.
Thôi thôi ngảnh mặt làm thinh,
Thử xem con tạo gieo mình nơi nao?
Tay nguyệt lão khờ sao có một,
Bỗng tơ tình vương gót cung phi[65].
135. Cái đêm hôm ấy đêm gì,
Bóng dương[66] lồng bóng đồ my[67] trập trùng?
Chồi thược dược[68] mơ mòng thuỵ vũ[69],
Đoá hải đường[70] thức ngủ xuân tiêu[71].
Cành xuân hoa chúm chím chào,
140. Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai.
Xiêm nghê[72] nọ tả tơi trước gió,
Áo vũ[73] kia lấp ló trong trăng,
Sênh ca mấy khúc vang lừng,
Cái thân Tây Tử[74] lên chừng điện Tô[75].
145. Đệm hồng thuý[76] thơm tho mùi xạ[77],
Bóng bội hoàn[78] lấp ló trăng thanh.
Mây mưa mấy giọt chung tình,
Đình trầm hương[79] khoá một cành mẫu đơn.
Tiếng thánh thót cung đàn thuý dịch[80],
150. Giọng nỉ non ngón địch đan trì[81].
Càng đàn, càng địch, càng mê,
Càng gay gắt điệu, càng tê tái lòng!
Mày ngài[82] lẫn mặt rồng[83] lồ lộ,
Sắp song song đôi lứa nhân duyên.
155. Hoa thơm muôn đội trời trên,
Cam công mang tiếng thuyền quyên với đời.
Trên chín bệ mặt trời gang tấc[84],
Chữ xuân riêng[85] sớm chực trưa chầu.
Phải duyên hương lửa[86] cùng nhau,
160. Xe dê[87] lọ rắc lá dâu mới vào.

Khi ấp mận ôm đào[88] gác nguyệt[89],
Lúc cười sương cợt tuyết[90] đền phong[91].
Đoá lê[92] ngon mắt cửu trùng[93],
Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu[94].
165. Vẻ vưu vật[95] trăm chiều chải chuốt,
Lòng quân vương chi chút trên tay[96].
Má hồng không thuốc mà say,
Nước kia muốn đổ, thành này muốn long[97]!
Vườn Tây Uyển khúc trùng “Thanh dạ[98]”,
170. Gác Lâm Xuân[99] điệu ngã “Đình hoa[100]”.
Thừa ân[101] một giấc canh tà,
Tờ mờ nét ngọc, lập loà vẻ son[102].
Trên trướng gấm chí tôn[103] vòi vọi,
Những khi nào gần gũi quân vương.
175. Dẫu mà tay có nghìn vàng,
Đố ai mua được một tràng mộng xuân[104].
Thôi cười nọ lại nhăn mày liễu[105],
Ghẹo hoa kia lại diễu gót sen[106].
Thân này uốn éo vì duyên,
180. Cũng cam một tiếng thuyền quyên với đời.
Lan[107] mấy đoá lạc loài sơn dã,
Uổng mùi hương vương giả[108] lắm thay!
Gẫm như cân trất[109] duyên này,
Cam công đặt cái khăn[110] này tắc ơ[111].
185. Tranh tỷ dực[112] nhìn ưa chim nọ,
Đồ liên chi[113] lần trỏ hoa kia.
Chữ đồng[114] lấy đấy làm ghi,
Mượn điều thất tịch[115] mà thề bách niên.
Hạt mưa đã lọt miền đài các[116],
190. Những mừng thầm cá nước[117] duyên may.
Càng lâu, càng lắm điều hay,
Cho cam công kẻ nhúng tay thùng chàm[118].
Ai ngờ bỗng mỗi năm một nhạt,
Nguồn ân kia chẳng tát mà vơi!
195. Suy di đâu biết cơ trời,
Bỗng không mà hoá ra người vị vong[119].
Đuốc vương giả chí công là thế,
Chẳng soi cho đến khoé âm nhai[120]!
Muôn hồng nghìn tía[121] đua tươi,
200. Chúa xuân[122] nhìn hái một hai bông gần.

Vốn đã biết cái thân câu chõ[123],
Cá no mồi cũng khó nhử lên,
Ngán thay cái én[124] ba nghìn,
Một cây cù mộc[125] biết chen cành nào?
205. Song đã cậy má đào chon chót,
Hẳn duyên tươi phận tốt hơn người.
Nào hay con tạo trêu ngươi,
Hang sâu chút hé mặt trời lại râm[126].
Trong cung quế[127] âm thầm chiếc bóng,
210. Đêm năm canh trông ngóng lần lần.
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân,
Chơi hoa cho rữa[128] nhuỵ dần lại thôi.
Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,
Gác thừa lương giấc ngủ thu phong,
215. Phòng tiêu[129] lạnh ngắt như đồng,
Gương loan[130] bẻ nửa, dải đồng[131] xẻ đôi.
Chiều ủ dột giấc mai[132] khuya sớm,
Vẻ bâng khuâng hồn bướm[133] vẩn vơ.
Thâm khuê vắng ngắt như tờ,
220. Cửa châu gió lọt, rèm ngà sương gieo.
Ngấn phượng liễn[134] chòm rêu lô chỗ,
Dấu dương xa[135] đám cỏ quanh co.
Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu[136],
Gối loan[137] tuyết đóng, chăn cù[138] giá đông.
225. Ngày sáu khắc tin mong nhạn[139] vắng,
Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền.
Lạnh lùng thay giấc cô miên,
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn âm u.
Tranh biếng ngắm trong đồ tố nữ[140],
230. Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu[141].
Một mình đứng tủi, ngồi sầu,
Đã than với nguyệt, lại rầu với hoa!
Buồn một nỗi hồn đà khắc khoải,
Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ.
235. Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm, để xơ nhuỵ vàng.
Đêm năm canh lần nương vách quế[142],
Cái buồn này ai để giết nhau,
Giết nhau chẳng cái Lưu Cầu[143],
240. Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!
Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ,
Xe thế này có dở dang không?
Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng[144] mà ra!

245. Nào lối dạo vườn hoa năm ngoái,
Đoá hồng đào hái buổi còn xanh.
Trên gác phượng, dưới lầu oanh,
Gối du tiên[145] hãy rành rành song song.
Bây giờ đã ra lòng rẻ rúng,
250. Để thân này cỏ úng tơ mành.
Đông quân[146] sao khéo bất tình,
Cành hoa tàn nguyệt, bực mình hoài xuân[147].
Nào lúc tựa lầu Tần[148] hôm nọ,
Cành liễu mành bẻ thuở đương tơ.
255. Khi trướng ngọc, lúc rèm ngà,
Mảnh xuân y[149] hãy sờ sờ dấu phong.
Bây giờ đã ra lòng ruồng rẫy,
Để thân này nước chảy hoa trôi[150].
Hoá công sao khéo trêu ngươi?
260. Bóng đèn tà nguyệt tẻ mùi ký sinh.
Cảnh hoa lạc nguyệt minh[151] hôm ấy,
Lửa hoàng hôn[152] như cháy tấm son.
Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng,
Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa!
265. Buồn vì nỗi nguyệt tà ai trọng,
Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn!
Tình buồn cảnh lại vô duyên,
Tình trong cảnh ấy, cảnh bên tình này.
Khi trận gió lung lay cành bích[153],
270. Nghe rì rầm tiếng mách ngoài xa.
Mơ hồ nghĩ tiếng xe ra,
Đốt phong hương hả mà hơ áo tàn.
Ai ngờ tiếng dế than ri rỉ,
Giọng bi thu[154] gọi kẻ cô phòng[155].
275. Vắng tanh nào thấy vân mòng[156],
Hơi thê lương[157] lạnh ngắt song phi huỳnh[158].
Khi bóng nguyệt chênh vênh trước ốc[159],
Nghe vang lừng tiếng giục bên tai:
Dè chừng nghĩ tiếng tiểu đòi[160],
280. Nghiêng bình phấn mốc mà nhồi má nheo.
Ai ngờ tiếng quyên[161] kêu ra rả,
Điệu “Thương xuân[162]” khóc ả sương khuê[163].
Lạnh lùng nào thấy ỏ ê,
Khí bi thương sực nức hè lạc hoa[164].

285. Tiếng thuý điện[165] cười già ra gắt,
Mùi quyền môn[166] thắm rất nên phai.
Nghĩ nên tiếng cửa quyền ôi[167],
Thì thong thả vậy, cũng thôi một đời.
Vì sớm biết lòng trời đeo đẳng,
290. Dẫu thuê tiền cũng chẳng mang tình[168].
Nghĩ mình lại ngán cho mình,
Cái hoa đã trót gieo cành[169] biết sao!
Miếng cao lương[170] phong lưu[171] nhưng lợm,
Mùi hoắc lê[172] thanh đạm mà ngon.
295. Cùng nhau một giấc hoành môn[173],
Lau nhau ríu rít cò con[174] cũng tình.
Ví sớm biết phận mình ra thế,
Dải kết điều oẻ oẹ[175] làm chi.
Thà rằng cục mịch nhà quê,
300. Dẫu lòng nũng nịu nguyệt kia hoa này.
Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ[176],
Vẻ tiêu tao[177] lại võ hoa đèn.
Muốn đem ca tiếu giải phiền,
Cười nên tiếng khóc, hát nên giọng sầu.
305. Ngọn tâm hoả[178] đốt dàu nét liễu[179],
Giọt hồng băng[180] thấm ráo làn son[181].
Lại buồn đến cảnh con con,
Trà chuyên nước nhất[182], hương dồn khói đôi[183].
Trong gang tấc[184] mặt trời xa bấy,
310. Phận hẩm hiu nhường ấy vì đâu?
Sinh ly đòi rất thời Ngâu[185],
Một năm còn thấy mặt nhau một lần.
Huống chi cũng lạm phần son phấn,
Luống năm năm chực phận buồng không.
315. Khéo vô duyên với cửu trùng[186],
Son nào nhuộm được má hồng cho tươi[187]?
Vườn thượng uyển[188] hoa cười với nắng,
Lối đi về ai chẳng chiều ong.
Doành Nhâm[189] một dải nông nông,
320. Bóng dương bên ấy, đứng trông bên này.

Tình rầu rĩ làm ngây[190] nhĩ mục[191],
Chốn phòng không như giục mây mưa[192].
Giấc chiêm bao những đêm xưa,
Giọt mưa cửu hạn[193] còn mơ đến rày.
325. Trên chín bệ[194] có hay chăng nhẽ?
Khách quần thoa[195] mà để lạnh lùng!
Thù nhau ru hỡi đông phong[196]?
Góc vườn dãi nắng cầm bông hoa đào[197].
Tay tạo hoá cớ sao mà độc,
330. Buộc người vào kim ốc[198] mà chơi.
Chống tay ngồi nghĩ sự đời,
Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm!
Nơi lạnh lẽo, nơi xem gần gặn,
Há phai son lạt phấn ru mà!
335. Trêu ngươi chi bấy trăng già[199]?
Trao con chỉ thắm mà ra tơ mành[200]!
Lòng ngán ngẩm buồn tênh mọi nỗi,
Khúc sầu tràng bối rối dường tơ.
Ngọn đèn phòng động[201] đêm xưa,
340. Đài hoa tịnh đế[202] trơ trơ chưa tàn.
Mà lượng thánh đa đoan kíp bấy,
Bỗng ra lòng ruồng rẫy vì đâu?
[203] già tỏ nỗi xưa sau,
Chẳng đem nỗi ấy mà tâu ngự[204] cùng?
345. Đêm phong vũ lạnh lùng có một,
Giọt ba tiêu thánh thót cầm canh.
Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh,
Vách sương nghi ngút, đèn xanh lờ mờ.
Mắt chưa nhắp, đồng hồ[205] đã cạn,
350. Cảnh tiêu điều ngao ngán dường bao.
Buồn này mới gọi buồn sao?
Một đêm nhớ cảnh biết bao nhiêu tình.
Bóng câu[206] thoáng bên mành mấy nỗi,
Những hương sầu phấn tủi bao xong!
355. Phòng khi động đến cửu trùng[207],
Giữ sao cho được má hồng như xưa[208].
Trích lời dẫn của Tôn Thất Lương trong sách Cung oán ngâm khúc (NXB Tân Việt, 1950): “Hai chữ cung oán là sự oán hờn nơi cung cấm của các cung phi, cung tần đã từng được vua yêu rồi lại bị ghét bỏ, vì lời gièm pha ghen tuông lẫn nhau; hoặc có người đã chọn mà suốt đời không được sự hạnh sủng, nên đã thốt ra nỗi oán hờn. Trải xem các đời từ xưa nơi cung cấm, cung nhân nhiều đến số ba bốn nghìn, mà trong số ấy thường chỉ có vài người được sủng ái, nên phần nhiều cung nhân có tài học tự làm ra lời cung oán, hoặc các nhà thơ đặt ra lời cung oán, mượn thân phận của cung nữ mà tỷ nghĩ thân phận mình, cũng đề là cung oán. Về sau hai chữ cung oán thành một cái nhan đề, chuyên nói sự oán hờn của cung nữ. Lại có đề khuê oán chuyên nói sự oán hờn của người đàn bà có chồng, bị chồng đi xa không về; đề khuê oán phần nhiều cũng là lời của các nhà thơ mượn sự tình của người để bày thân phận của mình vậy. Cung oán ngâm khúc 宮怨吟曲 là một khúc ngâm về nỗi oán hờn của cung nhân mà Ôn Như Hầu tiên sinh đã mượn tình trạng cung phi để tự ví thân phận mình; khúc ngâm này dùng điệu song thất lục bát.”

Trích đoạn của bài thơ này (từ câu “Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng” đến câu “Cái hoa đã trót gieo cành biết sao”) được sử dụng làm bài đọc thêm trong chương trình SGK Văn học 10 giai đoạn 1990-2006.

[1, 142] Vách quế, cung quế là nơi cung điện, gọi là quế cung. Sách Nam bộ yên hoa ký 南部煙花記 chép: Trần Hậu Chủ làm một nơi cung điện cho cung phi Trương Lệ Hoa 張麗華 ở tại sau điện Quang Chiêu 光昭, xây một cửa tròn lớn, khảm tấm thuỷ tinh pha lê như hình mặt trăng, sau bôi phấn trắng, giữa sân rộng, trước cửa ấy chỉ trồng một cây quế, tượng hình cây quế trong mặt trăng, như lời thế tục nói: “nguyệt trung đan quế” 月中丹桂. Cung ấy gọi là quế cung. Quế tức là cây mộc tê 木樨, tục gọi cây hoa mộc, hoa từng chùm như cái vỏ lúa, có hương thơm xa. Đây dùng vách quế mượn điển xưa, chỉ nơi của cung nhân có sắc đẹp được vua yêu ở đấy.
[2] Bởi chữ “kim phong” 金風 là gió mùa thu. Mùa thu thuộc số ngũ hành là chữ kim, về vị trí thu ở hướng tây, về số địa chi thuộc quẻ Canh Tân loài kim, nên gọi thu là kim thiên.
[3] Vũ y 羽衣 là áo dệt bằng lông chim ngũ sắc để dùng múa, có vẻ lộng lẫy như các tiên bay trên trời. Những cung phi thường mặc áo ấy để khi có cuộc vui, chầu ngự múa.
[4, 144] Đời xưa ở nơi phòng hoàng hậu ở, dùng tiêu tán nhỏ, bôi vào vách cho thơm và ấm, gọi là “tiêu đồ” 椒塗 (bôi tiêu). Đây dùng tiêu phòng tức nơi phòng bôi tiêu, nơi cung cấm các hậu phi ở.
[5] Nghĩa là trời đất sáng tạo và hoá dục muôn vật.
[6] Là vẻ đẹp của hoa phù dung. Hoa ấy màu cung phấn đỏ nhạt, hoa lớn gồm 4, 5 hoa tường vi, buổi mai nở, buổi chiều tàn, thường ví nhan sắc người đẹp. Thơ Bạch cư Dị, bài Trường hận ca, tả tình vua Đường Minh Hoàng nhớ Dương Quý Phi có câu: “Phù dung như diện liễu như my” 芙蓉如面柳如眉 (Hoa phù dung như mặt, lá dương liễu như mày).
[7] Có bản chép là “Nụ hoa”.
[8] Câu này dùng điển nàng Ban tiệp dư là một cung nhân của vua Thành Đế nhà Hán, bà làm nữ quan đến chức tiệp dư, họ là Ban, được vua yêu lắm, sau bị nàng Triệu Phi Yến 趙飛燕 gièm, bà sợ nguy thân xin vua cho ở chầu hầu bà thái hậu, mẹ vua ở cung Trường Tín 長信. Từ khi bà về ở cung ấy thì sự sủng hạnh ngày một phai dần, nên bà đã đề một bài thơ ở trên cái quạt tròn, bằng một thứ bát tơ trắng gọi là gọi là Tề hoàn 齊紈 (lụa bát tơ của nước Tề) mà bà tự dệt ra và tự chế thành cái quạt tròn, để tự ví thân phận mình. Cái quạt và bài thơ Ban tiệp dư tự ví mình như cái quạt hợp hoan tròn đã từng được vua yêu chuộng nhưng phải ném cất vào xó rương, vì hơi thu mát đã cướp mất gió mát của quạt, nên ân tình nửa đường phải đoạn tuyệt. Ví mình bị người dèm pha, bị vua ghét bỏ. Đây tác giả dùng chữ gấm cho khỏi dùng chữ Tề hoàn là một thứ lụa mỏng hay bát tơ có vẻ sáng đẹp dùng làm quạt rất đẹp. Đáng lẽ nói lụa nàng Ban, hay quạt nàng Ban.
[9] Đào kiểm 桃臉 là má đỏ hồng xinh tươi như hoa đào, ví với người đẹp. Có sách đọc là “Đào Kiển” và chú là Đào Kiển phu nhân 桃蹇夫人, tên riêng của nàng Qua Tiểu Nga 戈小娥, một cung phi của vua Thuận Đế nhà Nguyên được phong chức Thục cơ nhất phẩm phu nhân, yêu chuộng hơn các cung phi khác làm họ phải phiền não. “Đào kiểm” đối với “thu ba” ở câu sau đúng hơn.
[10] Thu ba 秋波 là sóng mùa thu, nước thu thường đầy, sóng thu càng đẹp. Con mắt người gái đẹp có vẻ uớt và sáng như sóng mùa thu.
[11] Làn sóng làm cho thành nghiêng đổ, nghĩa bóng, đôi con mắt liếc, người phải theo đến nỗi nghiêng thành. Kinh thi có câu: “Triết phu thành thành, triết phụ khuynh thành” 哲夫成城,哲婦傾城 (Người đàn ông giỏi dựng nên một thành trì, người đàn bà đẹp làm nghiêng đổ thành trì).
[12] Có bản chép là “Bóng gươm lấp loáng dưới mành”.
[13, 192] Bởi chữ “vân vũ” 雲雨, do điển Sở Tương Vương đi chơi đầm Vân Mộng gần núi Vu chiêm bao thấy một người gái rất đẹp đến chung chạ chăn gối, và tự xưng là Vu sơn thần nữ 巫山神女. Lại nói: Mỗi buổi mai thần nữ làm mây, buổi chiều làm mưa ở núi Vu. Về sau vua nghiệm xen quả thật như lời thần nữ nói trong giấc mộng, bèn lập đền thờ ở chân núi Vu. Bởi điển ấy người sau dùng chữ “mây mưa” mà ví sự trai gái chăn gối chung chạ ấp yêu. Hoặc dùng chữ non Thần, non Vu, đỉnh Giáp, đều nghĩa ấy.
[14] Sách Trang Tử 莊子 nói: Sắc đẹp nàng Vương Tường 王嬙 và Lệ Cơ 麗姬 đẹp đến nỗi con cá thấy phải chìm lặn, con nhạn thấy phải bay cao, tức chữ “trầm ngư lạc nhạn” 沉魚落雁 (cá lặn nhạn sa), ý nói đẹp quá con cá con nhạn đều phải tránh bay cao.
[15] Tây Thi 西施 là tên người con gái quê làm vải sợi, giặt vải sợi, ở thôn Trữ La, có sắc đẹp tuyệt thế. Đời Xuân Thu, vua Việt là Câu Tiễn 勾踐 bị thua vua Ngô ở đất Cối Kê, sau mưu thần của Việt vương là Phạm Lãi 范蠡 mua nàng Tây Thi về dạy ca múa thành tài, rồi đem dâng vua Ngô là Phù Sai 夫差 tại nơi điện Cô Tô. Phù Sai yêu nàng, mê say phải mất nước. Về sau Phạm Lãi đem Tây Thi đi chơi cảnh Ngũ Hồ mất tích.
[16] Theo Liệt tiên truyện, Hằng Nga 姮娥 nguyên là vợ chàng Hậu Nghệ 后羿 đời vua Hoàng Đế. Nghệ học tiên, cầu được thuốc trường sinh, bị Hằng Nga uống trộm thành tiên bay lên cung trăng. Tây Thi và Hằng Nga là hai người có nhan sắc tuyệt thế.
[17] Ví đẹp đẽ như gấm thêu. Câu cẩm tú là câu thơ đẹp, chỉ việc làm thơ.
[18] Tức Lý Bạch 李白, thi nhân đời Đường, có tiếng giỏi văn chương, xưng là “miệng gấm lòng thêu” (tú khẩu cẩm tâm 繡口錦心).
[19] Sắc đỏ sắc xanh. Nét đan thanh chỉ việc vẽ tranh.
[20] Vương Duy 王維 có tài vẽ khéo thơ hay, trong thơ có vẽ, trong vẽ có thơ. Lý Bạch và Vương Duy là hai nhà thơ hay vẽ khéo đời Đường.
[21] Lưu Linh 劉伶 sinh ra khoảng cuối đời Tấn, người đất Bái, tự Bá Luân 伯倫, có tính phóng khoáng hay uống rượu, cùng ông Nguyễn Tịch, Kê Khang kết bạn thân, có làm bài Tửu đức tụng 酒德頌 chúc tụng đức tính của rượu. Ông làm quan với nước Tấn đến chức Kiến oai tướng quân.
[22] Đế Thích 帝釋 tên Lý Chế 李制, là một sư có tài đánh cờ vây (cờ tiên) rất cao. Chưa rõ ở đời nào.
[23] Người tinh sành âm luật gọi là tri âm 知音. Cổ thi có câu: “Bất tích ca giả khổ, Đãn thương tri âm hy” 不惜歌者苦,但傷知音稀 (Không tiếc người hát khó nhọc, Chỉ đau đớn người tri âm ít mà thôi).
[24] Tư Mã Tương Như 司馬相如 người ở Thành Đô đời Hán, có tài học giỏi đàn hay, đã đàn khúc Phụng cầu hoàng 鳳求凰 làm cho nàng Trác Văn Quân 卓文君 bỏ nhà theo làm vợ.
[25] Chàng Tiêu, tức Tiêu Sử 簫史 đời Xuân Thu, có tài thổi ống tiêu như tiếng chim phụng kêu, dạy nghề ấy cho vợ là Lộng Ngọc 弄玉 con Tần Mục Công thành tài. Có chim phụng bay xuống, hai vợ chồng cỡi phụng bay lên trời thành tiên.
[26] Miệng hát. Xang tức xướng ca.
[27] Ý nói các tiên nhìn người đẹp múa ca cũng chịu thua, xếp lại xiêm y mà ẩn mình sau trăng. Có bản chép là “Thiên tiên cũng ngảnh nghê thường trong trăng”.
[28] Tề Tuyên Vương 齊宣王 trong khi nói chuyện trị nước với thầy Mạnh Tử, có nói câu “Quả nhân hữu tật, quả nhân hiếu sắc” 寡人有疾,寡人好色 (Ta có tật, ta ưa sắc). Đó chỉ là một câu nói ví dụ ở trong việc chính trị, mà đây dùng lối “đoạn chương thủ nghĩa”, cho thêm lý thú khôi hài. Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên, tức bệnh ưa sắc đẹp của một đấng quân vương.
[29] Sắc đẹp đàn làm đến nỗi nghiêng thành nghiêng nước.
[30] Bởi chữ “tước bình” 雀屏. Tước là con sẻ hoặc con công. Bình là bức tranh chắn gió. Đây dùng tích chọn rể. Sách Đường thư chép: Cha bà Đậu Hậu 竇后 là ông Nghị 毅 chọn rể, bèn vẽ con công trên một bức bình phong, để những con nhà quý phái ai bắn trúng con mắt chim ấy thì được gả con. Sau đã có lắm người bắn không trúng. Cuối cùng là Đường Cao Tổ (khi chưa làm vua) bắn trúng, được vợ tức Đậu Hậu. Về sau dùng tích ấy là sự chọn rể.
[31] Có bản chép là “ngấp nghé”.
[32] Là trông ngôi sao trên trời, do chữ “tinh kỳ” 星期 ở Kinh thi nói sự thành hôn, nên lễ cưới vợ có câu “Trù mâu thúc tân, tam tinh tại thiên, kim tịch hà tịch, kiến thử lương nhân” 綢繆束薪,三星在天,今夕何夕,見此良人 (Chăm chỉ bó củi, trông ba ngôi sao trên trời, đêm này hay là đêm nào, sẽ thấy người bạn lành của ta) ý nói khi làm lụng và trông có lứa đôi. Đây dùng mong sao, lấy ý câu ấy.
[33] Ý nói tấm lòng vốn không phải là đá mà dễ lay chuyển được. Kinh thi, thiên Bách chu 栢舟: “Ngã tâm phỉ thạch, bất khả chuyển dã” 我心匪石,不可轉也.
[34] Thiên Thai 天台 là một núi có tiên ở. Đời Đông Hán có Lưu Thần 劉晨 và Nguyễn Triệu 阮肇 vào hái thuốc ở núi Thiên Thai, gặp hai tiên nữ kết làm vợ chồng, được vài tháng nhớ nhà xin về thăm. Về đến nhà đã quá bảy đời người, chỉ còn đứa cháu bảy đời. Sau Lưu và Nguyễn lại rủ nhau vào núi mất tích. Hai người còn cốt phàm thai nên không trọn đời làm tiên.
[35] Ý nói mua được nụ cười dù có vàng nghìn lượng cũng chẳng có. Thơ Vương Tăng Nhụ 王増孺 vịnh người hầu yêu: “Nhất tiếu thiên kim mãi” 一笑千金買 (Một nụ cười nghìn lạng vàng cũng mua). Thơ Lý Bạch: “Mỹ nhân nhất tiếu hoán thiên kim” 美人一笑換千金 (Nụ cười người đẹp xứng một nghìn lạng vàng).
[36] Dây đỏ. Vi Cố 韋固 đời Đường ở Tống Đô, đêm đi chơi mát, gặp ông già ngồi xem sách ở dưới trăng, bên có cái đãy đựng tơ đỏ (xích thằng) hỏi ông đáp rằng: Quyển sổ này chép tên tuổi, đãy đựng sợi tơ đỏ để buộc duyên phận vợ chồng người. Những người đã ghi tên vào sổ này, dù người thù hoặc ở nước khác cũng vầy nên chồng vợ. Ông này không có tên, ông xem sách dưới trăng nên gọi Nguyệt lão.
[37] Bởi chữ “dương chi thuỷ” 楊枝水, giọt nước nơi cành dương liễu. Sách Pháp uyển châu lâm 法苑珠林 chép: Sư tên Phật Đồ Trừng 佛圖澄 người nước Thiên Trúc một hôm ông Thạch Lặc 石勒 mời đến nhà chơi, vừa có đứa con đau bệnh nặng. Phật Đồ Trừng lấy cành dương liễu tẩm nước phép rảy cho đứa bé đau, liền lành khỏi. Phép ấy của Phật Quan Âm có bình ngọc cắm cành dương liễu.
[38] Sách Mạnh Tử nói: “Nhất ẩm nhất trác sự giai tiền định, vạn sự phận dĩ định, phù sinh không tự mang” 一飲一啄事皆前定,萬事分已定,浮生空自忙 (Một bữa ăn bữa uống cũng đã có định trước, muôn việc thảy có định phần cả, chỉ có sự sống trôi nổi làm nên băn khoăn mà thôi).
[39] Bởi chữ “tang thương”, hay “tang hải thương điền” 桑海滄田. Tang là cây dâu, nương trồng dâu. Thương là bể khơi, bãi bể. Sách Liệt tiên truyện chép: Bà ma cô tiên nữ đã nói bà từng thấy một nơi kia đám nương trồng dâu đã ba lần hoá thành bể khơi, bãi bể v.v... Ý nói sự thay đổi nơi trần thế nhiều lần.
[40] Từ cũ có nghĩa là vài đoạn, ở đây ý nói lòng xót xa như đứt thành vài đoạn.
[41] Bởi chữ “khổ hải” 苦海, tiếng nói của nhà Phật ví sự khốn khổ mênh mông vô cùng như bể.
[42] Bởi chữ “mê tân” 迷津. Nhà Phật nói sự ngờ vực ở nơi tam giới và lục đạo thì gọi là mê tân, bến lạc đường phải nhờ thuyền từ bi của Phật mới đưa vào đến bến.
[43] Có bản chép “tục luỵ” e sai vì “tục vị” mới đối với “thế đồ” (vị: mùi; đồ: đường).
[44] Bào ảnh 泡影 là cái bọt cái bóng. Kinh Kim cương bát nhã 金鋼般若 nói: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quan” 一切有為法,如夢,幻,泡,影,如露亦如電,應作如是觀 (Hết thảy những điều có làm, có bắt chước thảy là như giấc chiêm bao, như chuyện huyền-ảo, như bọt nước, như bóng đèn, như giọt móc và cũng như ánh sáng của chớp nhoáng, thì hết thảy nên xem như vậy cả), ý nói những sự hiện hữu trên đời đều không được lâu bền.
[45] Có bản chép là “gập ghềnh”.
[46] Bởi chữ “tạo hoá tiểu nhi”, trẻ nhỏ tạo hoá, lời nói bỡn gọi ông trời bằng trẻ con. Do điển Đỗ Thẩm Ngôn 杜審言 đời Đường, khi đau nặng, bọn ông Tống Chi Vấn 宋之問 vào thăm, Đỗ Thẩm Ngôn nói rằng: “Ngao ngán thay trẻ tạo hoá làm ta nên khổ sở”.
[47] Bởi chữ “lục trầm” 陸沉. Lục là trên cạn. Trầm là chìm đắm. Trang Tử nói: không thèm đi chung với đường đời gọi là chết đắm trên cạn. Đây dùng ý không hợp với tình đời.
[48] Là cái lò lớn, bởi chữ ở Bào phú của ông Giả Nghị có câu: “Thiên địa vi lô hề, tạo hoá vi công” 天地為爐兮,造化為工 (Trời đất làm cái lò, mà đấng tạo hoá làm thợ để đúc nặn ra muôn vật).
[49] Vân cẩu 雲狗 là mây chó. Thơ Đỗ Phủ: “Thiên thượng phù vân như bạch y, Tu tư hốt biến vi thương cẩu” 天上浮雲如白衣,須斯忽變為蒼狗 (Trên trời đám mây nổi như cái áo trắng, Bỗng chốc hoá hình con chó xanh). Ý nói sự biến chuyển nhanh chóng của mây. Về sau đem ví sự đổi thay trên đời.
[50] Bởi chữ “Nam Kha mộng” 南柯夢, giấc mộng ở cành hướng nam. Một bài ký của Lý Công Tá 李公佐 đời đường chép rằng Thuần Vu Phần 淳于焚 chiêm bao đến nước Hoè An 槐安 được quốc vương cho làm chức Thái thú và gả con gái cho, đủ mọi sự vinh hiển; sau bị thua trận, lại vợ chết và bị ông gia nghi kỵ cho về, bỗng tỉnh giấc, thấy mình ngủ dưới gốc cây hoè, dưới nhánh hoè hướng nam có cái hang kiến, mới sực tỉnh ngộ là mình chiêm bao vào nơi hang ấy. Về sau dùng điển ấy ví sự vinh hoa là giấc mộng.
[51] Có bản chép là “bất bình”.
[52] Bởi chữ “đào lý viên” 桃李園, một nơi danh thắng ở kinh đô Trường An xưa, mà Lý Bạch đã cùng các bạn văn chương hôi họp làm bài tự rất nổi tiếng. Dùng vườn đào lý nghĩa bóng nơi hội họp khách văn vật tài ba. Đào lý cũng có nghĩa là kẻ quan lại có tài năng do một vị đại thần tiến cử. Điển Địch Nhân Kiệt 狄仁傑 đời Đường tiến cử hơn 30 người quan lại có tài năng, nên có lời công chúng khen là: “Thiên hạ đào lý tận tại công môn” 天下桃李盡在公門 (Đào lý trong thiên hạ đều ở nơi cửa ngài mà ra).
[53] Đỉnh 鼎 là cái vạc. Chung 鐘 là cái chuông. Nhà quyền quý có đông người, phải dùng cái vạc mà nấu ăn, dùng cái chuông mà gọi người ăn cơm. Dùng chữ đỉnh chung hoặc chung đỉnh, chuông vạc đều là một nghĩa như nhau.
[54] Bởi chữ “luân hồi” 輪迴, bánh xe quay, là cái máy quay của tạo hoá. Nhà Phật nói: chúng sinh ở trong thế giới, từ khi đầu tiên đến nay cứ bị quay xoay vần trong lục đạo 六道 hết kiếp này đến kiếp kia mãi, như cái bánh xe quay mãi không thôi. Chỉ có kẻ tu hành đắc đạo mới thoát khỏi luân hồi ấy.
[55] Thệ thuỷ 逝水 là nước chảy. Cầu thệ thuỷ bởi lấy chữ ở sách Luận ngữ, đức Khổng Tử đứng trên sông mà nói rằng: “Thệ giả như ty phù, bất xả trú dạ” 逝者如斯夫,不舍晝夜 (Nước chảy như vậy chẳng dứt cả đêm liền ngày). Ý nói sự hoá sinh của trời đất nó tiếp tục nhau không bao giờ thôi, như nước chảy vậy. Đó là lẽ đạo thể bày tỏ thí dụ ở nước chảy cho ta thấy. Nghĩa bóng nói vật gì cũng sẽ khuất lấp cả. Cả câu ý nói ngồi nơi bến cũ (cổ độ) mà nhìn sự quá vãng trên đời.
[56] Thu phong 秋風 bởi chữ “trừu phong” 抽豐 là sự cầu xin kẻ khác giúp đỡ mình. Nhưng lâu ngày theo lời truyền ngoa của thế tục nói “trừu phong” ra “thu phong” là muốn cầu xin người giúp đỡ. Cả câu ý nói đứng dưới bóng nắng chiều rũ chân mà chờ đợi sự giúp đỡ. Thu phong có cũng có nghĩa là gió mùa thu, có vẻ hắt hiu thêm buồn. Cầu thệ thuỷ, quán thu phong, hai chữ cầu, quán, dặm thêm cho có nghĩa có tên chứ vốn không có quán nào, cầu nào tên là thệ thuỷ, thu phong cả.
[57] Nấm mồ cũ.
[58] Là bảy tình của người ta là: hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục (mừng, giận, thương, vui, yêu, ghét, muốn), là tình ai ai cũng có.
[59] Bởi chữ “ưu đàm hoa” 優曇華, là một hoa thiêng liêng của nhà Phật, ba nghìn năm mới có một lần nở hoa, mỗi khi có hoa tức có Phật ra đời. Điển lược chép ở Pháp hoa kinh 法華經.
[60] Bởi chữ “tuệ hoả” 慧火. Tiếng nhà Phật nói: ngọn lửa trí tuệ để đem chúng sinh ra khỏi nơi chướng ngại khổ sở.
[61] Đào chú 陶鑄 là nắn đúc, tức tạo hoá nắn đúc nên muôn vật, nghĩa bóng là trời đất.
[62] Là sự nguyên nhân đời trước, hậu quả là sự kết quả đời sau. Điển Phật ở Truyền đăng lục 傳燈錄 nói: “Dục tri tiền thế nhân, kim sinh thọ giả thị; Dục tri lai sinh quả, kim sinh tác giả thị” 欲知前世因,今生受者是;欲知來生果,今生作者是 (Muốn biết nguyên nhân đời trước ta thế nào, thì ta cứ xem những hưởng thụ của ta đời nay; Muốn biết sự kết đời sau thế nào, ta cứ xem sự ta làm đời nay đó). Ý nói nếu đời trước ta vốn có nhân đức thì đời nay được hưởng thụ sự lành, nếu đời nay ta làm điều không lành, ắt đời sau sẽ bị thiệt hại vậy..
[63] Kinh lễ nói: Khí âm hay sinh nhưng phải có khí dương mới sinh được, khí dương hay nuôi vật nhưng nếu không có khí âm thì không lớn được. Cho nên trai phải có vợ, gái phải có chồng, phối hợp âm dương mới có thể sinh trưởng được.
[64] Có bản chép là “rong ruổi”.
[65] Là một chức thứ hai, dưới chức hoàng hậu.
[66] Là bóng mặt trời, nghĩa bóng chỉ vua.
[67] Một thứ hoa leo giàn, có hoa như hoa lài kép, lá có nhiều chỉa và gai, như lá hoa tường vi. Hoa sắc trắng pha vàng nhạt như sắc rượu đồ my nên cũng viết đồ my là tên rượu đồ my. Đây dùng ví với dung mạo cung phi.
[68] Giống mẫu đơn mà ít cạnh, có tên riêng là hoa tướng 花相, tức tể tướng của loài hoa.
[69] Thuỵ vũ 瑞雨 là cơn mưa ứng với điềm lành được mùa. Đây dùng chỉ ân vua như mưa móc ứng điềm lành.
[70] Cây này còn có các tên tây phủ 西府, thuỳ ty 垂絲, niêm ngạnh 粘梗, có hoa màu cung phấn đỏ nhạt, hoa đẹp, đẹp như hoa hồng hạnh, sơn trà, thường ví con gái đẹp. Ta có hoa hải đường nhưng không phải thứ kể trên. Câu này dùng điển Dương quý phi say nằm ngủ, vua Minh Hoàng gọi mấy lần không dạy, bèn nói: “Hải đường thuỵ vị túc da?” 海棠睡未足耶? (Hoa hải đường ngủ chưa đủ sao?), ý yêu lắm và ví đẹp như hoa hải đường.
[71] Đêm xuân. Cổ thi: “Xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim” 春霄一刻值千金 (Một khắc đêm xuân xứng nghìn vàng).
[72] Bởi chữ “nghê thường” 霓裳, áo xiêm dệt bằng lông ngũ sắc để múa.
[73] Do chữ “vũ y” 羽衣, áo bằng lông chim.
[74] Tức nàng Tây Thi.
[75] Nơi vua Phù Sai nước Ngô làm cho Tây Thi ở.
[76] Là nệm thêu bằng lông chim phỉ thuý sắc xanh, đỏ.
[77] Xạ thứ hương lấy ở dái con xạ. Xạ như con hươu có hai cánh nanh dài, người săn nó nghe mùi thơm ngoài mười ngàn dặm. Xưa dùng hương ấy ướp áo, nệm, mền và làm thuốc.
[78] Bội hoàn 佩環 là các thứ ngọc chạm hình vẽ lắm thức của đàn bà sang quý đeo hai bên hạ thể, khi bước nghe kêu leng keng thêm vẻ đẹp.
[79] Nhà lục giác bằng gỗ thơm trầm hương của vua Minh Hoàng cùng ngồi thưởng hoa mẫu đơn cùng Dương quý phi tại vườn thượng uyển trong đêm xuân. Mẫu đơn là một thứ hoa đẹp hơn các loài hoa, gọi là hoa vương, vua các hoa, ngày xưa gọi mộc thược dược 木芍藥. Hoa có nhiều cạnh giống hoa tường vi, có nhiều màu vàng, tím, trắng, đỏ, chính sắc và gián sắc, lá có nắm chia, cây cao năm sáu thước, xuân nở hoa đến đầu hạ. Có tên riêng là phú quý hoa, vì có vẻ sặc sỡ sang giàu, lại có tên Diêu hoàng, Nguỵ tử (vàng họ Diêu, tím họ Nguỵ), vì hai họ ấy đã tìm được hoa ấy màu vàng, tím đẹp hơn cả.
[80] Thuý dịch 翠掖 là nơi cung thự ở hai bên cửa vào đại nội. Cung thự ấy sơn màu thuý (xanh biếc) hoặc gọi cấm dịch 禁掖.
[81] Đan trì 丹墀 là nơi thềm sơn màu đỏ, là nơi điện đài, chốn cung cấm thường sơn đỏ.
[82] Bởi chữ “nga my” 娥眉. Nga là con bướm ngài do con tằm hoá ra, có đôi mày cong và đẹp, nên mày con gái đẹp thường vẽ như mày con ngài, gọi mày ngài.
[83] Bởi chữ “long nhan” 龍顏, chữ ví diện mạo vua, vì vua thường ví với con rồng là một vật rất linh, đứng đầu tứ linh long, lân, quy, phụng. Vua Hán Cao Tổ có lời ví diện mạo: long chuẩn, long nhan, mũi rồng, mặt rồng.
[84] Bởi chữ “chỉ nhan” 咫顏. Tả truyện: “Thiên oai bất vi nhan chỉ xích” 天威不違顏咫尺 (Oai trời không xa trái nơi gang tấc). Ấy nói oai vua chỉ ở gần kẻ bày tôi. Đây dùng ý nói dối vua rất gần.
[85] Kinh thi, thiên Thiệu nam: “Hữu nữ hoài xuân, cát sĩ dụ chi” 有女懷春,吉士誘之 (Cô gái nhớ tình xuân, kẻ trai tài dỗ dành đó). Về sau trai gái có tình yêu mến nhau gọi là xuân riêng. Phàm con gái đến 17, 18 tuổi biết tình yêu con trai gọi là xuân ý, xuân tình, hoài xuân, tư xuân.
[86] Bởi chữ “hương hoả” 香火. Ngày xưa mỗi khi trai gái thề nguyền sự nhân duyên phối ngẫu, thường dùng hương lửa cúng vái quỷ thần mà thề nguyền, nên nhân duyên cũng gọi là hương lửa.
[87] Bởi chữ “dương xa” 羊車. Tấn thư chép: Vua Vũ Đế có lắm cung nhân, mỗi khi muốn đến với cung nhân nào vua ngồi trên xe nhỏ khảm châu ngọc có con dê kéo, để tuỳ ý dê muốn vào cung điện nào, cho nên những cung nhân thường lấy nước muối rắc ở cửa viện, con dê ưa ăn vị ấy nó vào. Đây dùng lá dâu, có lẽ vì vận trên phải ép mà để chữ “dâu”, chính lá tre mới đúng.
[88] Cây đào, cây mận thường ở chung một bồn, ý nói vợ chồng yêu mến.
[89] Là nơi lầu các đêm trăng.
[90] Nghĩa bóng là chơi đùa với nhau khi đêm đông lạnh lẽo, nơi nệm thuý chăn loan.
[91] Phong là một thứ cây giống cây bàng, mùa thu lá đỏ rất đẹp, thường trồng nơi cung điện. Gọi là đền phong, sân phong, bệ phong, nghĩa giống nhau.
[92] Là hoa lê, sắc trắng như hoa mai, có vẻ đẹp như người gái. Thơ Bạch Cư Dị ở bài Trường hận ca: “Lê hoa nhất chi xuân đới vũ” 梨花一枝春帶雨 (Một cành lê đám mưa xuân), tả vẻ đẹp Dương quý phi.
[93, 186, 207] Cửu trùng 九重 là chín tầng, là nơi vua ở, chỉ vua. Sở từ: “Quân môn hề cửu trùng” 君門兮九重 (Cửa vua ở chín tầng). Lại có gọi là Tôn động thiên 宗動天, nơi trời tôn kính sự đụng chạm, là nơi tầng trời yên lặng thứ chín, trời ở.
[94] Bởi câu thơ Trương Hựu vịnh bà Quắc quốc phu nhân 虢國夫人 là em thứ ba của Dương quý phi, có nhan sắc thiên nhiên, không dùng son phấn, khi vào chầu vua chỉ vẽ một nét mực nhạt ở đôi mày mà được vua yêu chuộng: “Khước hiềm chi phấn ô nhan sắc, Đạm tảo nga my triều chí tôn” 卻慊脂粉汚顏色,淡掃娥眉朝至尊 (Vì sợ phấn son làm nhơ nhan sắc, Chỉ vẽ sơ đôi mày vào chầu đấng chí tôn).
[95] Vưu vật 尤物 nghĩa là vật hiếm có và lạ. Tả truyện: “Phù hữu vưu vật, tức dĩ di nhân” 夫有尤物,足以移人 (Ôi có vật hiếm lạ đủ làm cho người phải đổi lòng), ý nói gái đẹp. Đây dùng vưu vật là gái đẹp.
[96] Bởi chữ “chưởng thượng trân” 掌上珍: vật báu nâng niu trên tay. “Chẳng chút trên tay” là không chút chi nâng niu.
[97] Ý nói vì sắc đẹp làm nên thành long nước đổ.
[98] Thanh dạ du 清夜遊 là chơi trong trong đêm thanh, tên một bài hát của Tuỳ Dạng Đế đặt ra để các cung nhân dạo trong vườn Tây Uyển, nay đem hát lại. Trùng là hai lần.
[99] Có bản chép là “Lâm Xuyên”.
[100] Tên bài hát Hậu đình hoa hay là Ngọc thụ hậu đình hoa 玉樹後庭花 của vua Trần Hậu Chủ đặt cho các cung nữ có văn học hát chơi ở gác Lâm Xuân 臨春 làm bằng gỗ trầm hương. “Điệu ngã Đình hoa” là say đắm khúc ca.
[101] Thừa ân 承恩 là sự được vua ban ân huệ. Giấc thừa ân là giấc chiêm bao được yên.
[102] Vẻ ngọc nét son là sự chăn chung gối chạ của nhà vua.
[103] Chí tôn 至尊 là đấng tôn quý, chỉ nhà vua.
[104] Bởi điển Tô Thức (Tô Đông Pha) khi về hưu dạo chơi nơi đồng ruộng, gặp mụ già đi bới rơm, hỏi rằng: “Ngài có phải đã từng làm chức Nội hàn được vinh quý, nay còn có chút nào ở cõi mộng xuân ấy không?”. Ý nói sự vinh quý chóng hết như một giấc mộng ngắn ngủi đêm xuân vậy. Ví sự vinh hoa hư huyễn của người đời. Từ đó chữ “xuân mộng bà” là bà mộng xuân.
[105] Nét vẽ mày dài và nhọn vót như hình lá liễu. Chữ gọi là “liễu my” 柳眉.
[106] Gót giày đàn bà sang quý, bởi điển Đông Hôn Hầu 東昏侯 có vợ là Phan phi 潘妃, có dáng đi rất dịu dàng, ông bèn làm hoa sen vàng khảm vào nền điện cho bà đi. Ông ngắm nghía mà khen rằng: “Bộ bộ sinh liên hoa” 步步生蓮花 (Bước bước nảy hoa sen). Dùng chữ bước sen, gót sen, hài sen, vẻ sen là tiếng ta và liên bộ 蓮步, liên câu 蓮鈎, thảy là một nghĩa chân đàn bà đẹp bước.
[107] Có lắm tên: bạch ngọc 白玉, nhất điểm hồng 一點紅, tử cán 紫簳, tứ thời 四時, tuý ông 醉翁, phong lan 風蘭, là một loài cây có lá dài hoa thơm ở núi thâm sơn, hoặc bám vào gốc cây và lèn đá mà tươi tốt. Có hoa đẹp hương thơm, người văn nhân liệt lan vào hạng cây sang quý, ví với quân vương, hoặc bạn bè văn chương hiền nhân quân tử.
[108] Tức hương lan. Bởi điển ở sách Khổng Tử gia ngữ. Đức Khổng Tử từ nước Vệ về nước Lỗ thấy nơi núi sâu hang rậm có nhiều hoa lan, bèn than rằng: “Lan vi vương giả hương, kim nãi dữ chúng thảo ngũ?” 蘭為王者香,今乃與眾草伍? (Lan có mùi thơm kẻ quân vương, nay lại khiến lẫn với các loài cỏ?) Ý ngài tự ví mình phải rủi ro không gặp vận tốt, bèn đặt ra khúc hát Y lan vừa đàn vừa hát theo. Đây dùng ý cung phi tự thương hại mình không có thời vận.
[109] Cân trất 巾櫛 là cái khăn lược, công việc đàn bà săn sóc chồng. Tả truyện, lời bà Định Khương 定姜 nói: “Dư dĩ cân trất sự tiên quân” 余以巾櫛事先君 (Ta từng cầm cái khăn cái lược mà hầu hạ đấng tiên quân [vua trước]), ý nói hầu hạ chồng. Cân là cái khăn lau mặt, hoặc cái mão đội trên đầu.
[110] Bởi chữ “thiết thuế” 設帨. Kinh lễ chép: Khi sinh con gái, thì đặt cái khăn bên hữu cửa phòng đẻ để tỏ ra việc khăn lược là việc con gái.
[111] Là tiếng chắc lưỡi lắc đầu có ý chán nản.
[112] Là chắp cánh. Sách Nhĩ nhã chép: Ở phương nam có chim chắp cánh mỗi con chỉ có một cánh, khi bay phải chắp nhau, hai con mới bay được. Sự ấy người sau đem ví vợ chồng. Trường hận ca, thơ Bạch Cư Dị thuật lời thề của Đường Minh Hoàng cùng Dương quý phi, trong đêm thất tịch, mồng bảy tháng bảy tại điện Trường Sinh rằng: “Tại thiên nguyện tác tỷ dực điểu, Tại địa nguyện vi liên lý chi” 在天願作比翼鳥,在地願為連理枝 (Nếu sinh ở trên đời đôi ta sẽ nguyện làm chim chắp cánh, Nếu sinh ở đất nguyện làm cây liền cành). Ý nguyền không hề rời nhau ra.
[113] Tức chữ “liên lý chi” 連理枝 là cây liền cành nói ở trên.
[114] Bởi chữ “đồng tâm” 同心 là cùng nhau một lòng (vợ chồng).
[115] Đêm mồng bảy tháng bảy. Sách Tục tề hài chí chép: Ở phía đông sông Thiên Hà (Ngân Hà) có cháu gái trời là Chức Nữ chăm lo việc nữ công lắm, trời yêu sự siêng năng bèn gả cho Khiên Ngưu Lang, sau khi có chồng lại làm biếng nhác thêu dệt, bị trời phạt bắt phải chia lìa nhau, mỗi năm chỉ được họp mặt một lần ở bến sông Thiên Hà vào đêm mồng bảy tháng bảy. Ấy là sự hoang đường, vì hai sao Khiên Ngưu, Chức Nữ đêm ấy vừa độ đi gặp nhau ở giới hạn sông Thiên Hà. Điển ấy về sau dùng làm sự phân ly của vợ chồng.
[116] Bởi câu ca dao ta ví thân phận người đời: “Thân em như hạt mưa sa, Hạt vào đài các hạt ra ao bèo”.
[117] Bởi chữ “ngư thuỷ” 魚水, có nhiều nghĩa: vua tôi tin cậy, vợ chồng hoà mục. Đời Tam Quốc, Lưu Bị cùng Khổng Minh Gia Cát Lượng rất thân mật. Các ông Quan Vũ, Trương Phi không bằng lòng. Lưu Bị nói: “Ta có Khổng Minh như cá gặp nước, các ngươi chớ nên giận phiền”. Kinh thi: “Hạo hạo giả thuỷ, dục dục giả ngư” 浩浩者水,育育者魚 (Mênh mông kia là nước, nhởn nhơ kia là cá), ý ví vợ chồng hoà mục.
[118] Là lời ngạn ngữ ta ví chuyện gì đã trót lỡ làm nên như đã nhúng tay vào thùng chàm xanh, thì không thán oán nữa.
[119] Vị vong 未亡 là chưa chết, lời tự xưng của người đàn bà là vị vong nhân (người chưa chết), ý nói phận đàn bà buộc phải theo chồng. Chồng chết phải chết theo, nếu còn sống là người đáng chết mà chưa chết vậy. Cung phi tự xưng như thế là ví mình tuy có chồng mà cũng như chồng chết vậy.
[120] Âm 陰 là im, nhai 涯 là nơi gành sâu bờ thẳm, nghĩa bóng chỉ thân phận cung nhân bị cảnh lẻ loi. Tạp truyện Kinh thư có câu: “Thái dương tuy vô tư, kỳ chiếu âm nhai hàn cốc giả độc hậu” 太陽雖無私,其照陰涯寒谷者獨後 (Bóng mặt trời tuy không thiên vị, mà soi đến nơi gành sâu hang thẳm về sau cuối cùng).
[121] Hoa có lắm màu sắc. Đường thi: “Vạn tử thiên hồng tổng thị xuân” 萬紫千紅總是春 (Muôn hồng nghìn tía thảy là xuân vậy).
[122] Bởi chữ “đông quân” 東君, vị thần mặt trời ra từ phương đông, và riêng thống trị mùa xuân. Đông quân, đông hoàng 東皇, chúa xuân đều một nghĩa.
[123] Là câu cá ở nơi có nhiều người câu, mình câu ké.
[124] Tức con chim yến, nghĩa bóng là cung nữ. Ở bài Tần cung nữ oán Bái công văn của Đặng Trần Thường có câu: “Cái én tam thiên ngơ ngẩn đó, ví với ba nghìn cung nữ ở cung Tần”.
[125] Là cây cao mà cong, chữ ấy ở thiên Cù mộc 樛木 trong Kinh thi: “Nam hữu cù mộc, Cát luỹ luỵ chi” 南有樛木,葛藟累之 (Phương nam có cây cong, Dây sắn dây bìm leo đó). Ví các tì thiếp, hầu mọn cám đức bà hậu phi, vợ vua Văn Vương, không ghen tuông, bọn ấy được yên phận, nên ví cây sắn cây bìm nương tựa cù mộc. Đây dùng nghĩa bóng: lối thoát thai, ví vua là cây cù mộc, cung nữ là cái én.
[126] Là đám mây đen che im bóng mặt trời. Ví nghĩa bóng như cung nữ được yêu đương một hồi lại thôi.
[127] Nơi cung phi ở.
[128] Là rã rời.
[129] Bởi chữ “tiêu phòng” 椒房.
[130] Có lắm nghĩa: (1) Cái gương soi mặt, chạm hình chim loan ở phía sau lưng, hoặc cái gía gương chạm hình chim loan. (2) Diệm Tần Dương nuôi chim loan đã ba năm, nó không kêu. Vợ nghe nói cho nó soi gương nó sẽ kêu, quả nhiên loan soi gương thấy bóng nhớ loài, kêu suốt đêm thì chết. Bài phú của Vương Bột 王勃 có câu rằng: “Nguyệt khai loan kính, Hoài tinh giám dĩ phân hình” 月開鸞鏡,懷精鑑以分形 (Gương mở kính loan, Soi bónh tinh tường mà lẻ phân hình dạng). Đây dùng gương loan bẻ nửa, là ý lẻ loi, không có đôi bạn, chồng, tức vua, nên tưởng tượng như mảnh gương loan bẻ một phần nửa.
[131] Bởi chữ “đồng tâm đới” 同心帶 hoặc “đồng tâm kết” 同心結 là một dải thắt lưng có hai mối thắt lại giữa rốn, bằng gấm thêu, vật ấy xưa vua Tuỳ Dạng Đế đã tự niêm phong gởi cho bà phu nhân được Đế yêu. Đồng tâm kết nghĩa là mối buộc đồng lòng.
[132] Giấc ngủ cung phi, ví cốt cách đẹp như cây mai, thì gọi giấc ngủ là giấc mai. Cũng có điển Triệu Sư Hùng 趙師雄 đến quán rượu bên chân núi La Phù, uống rượu say nằm ngủ dưới gốc mai, chiêm bao thấy có người gái đẹp đến trò chuyện, khi tỉnh mới biết là giấc mộng, cũng gọi giấc mai.
[133] Tức hồn trong giấc mộng, bởi điển ông Trang Chu 莊周 nói khi thức là mình ông, khi ngủ ông hoá ra con bướm, nên gọi giấc bướm, hoặc giấc Trang, giấc điệp, bướm Trang, giấc hồ.
[134] Phượng liễn 鳳輦 là cái kiệu, cái xe chạm hình chim phượng của vua ngự.
[135] Là xe con dê kéo.
[136] Là những nơi phong lưu diệm dã, nay có chiều phai nhạt như vẻ tiêu điều mùa thu. Lầu Tần quán Sở là chữ thành ngữ của cảnh phong lưu sung sướng. Thơ người đời Tống chơi xứ Bạch Hạ về, có câu: “Lai vãng không lao Bạch Hạ thuyền, Tần lâu Sở quán tổng mang nhiên; Duy dư nhất quyển tân thi thảo, Thính vũ giang hồ thập nhị niên” 來往空勞白下船,秦樓楚館總忙然;惟餘一卷新詩草,聽雨江湖十二年 (Đi đi lại lại luống nhọc con thuyền ở xứ Bạch Hạ, Những cảnh lầu Tần quán Sở phong lưu diệm dã thảy quên man mác cả; Chỉ còn lại một tập thơ mới làm và một kỷ niệm bên tai, Là mười hai năm nghe mưa ở nơi giang hồ). Ý nói sự hào dật phong lưu đều quên cả, chỉ còn tâm huyết là tập thơ mới làm và tinh thần là khi yên tịnh nghe mưa ban đêm đã mười hai năm qua đó thôi.
[137] Là gối thêu hình chim loan, ý dùng nói nhớ lứa đôi.
[138] Là cái chăn bằng lông cù, lông ấm (chiên).
[139] Là con chim ngỗng trời, con mái là nhạn, con trống là hồng, nhưng dùng nhạn là tiếng chung. “Mong nhạn vắng” là mong tin tức vắng không thấy. Điển Tô Vũ 蘇武 đi sứ rợ Hung Nô hoà với Hán, Hán hỏi Tô Vũ, thì rợ ấy nói chết rồi. Mưu thần là Thường Huệ 常惠 dặn xứ qua nói với Hung Nô rằng Tô Vũ đi chăn dê có bắt được con chim nhạn, xé áo lụa, viết thư buộc vào chân thả nhạn bay về, vua Hán đi bắn được nhạn, biết ông hãy còn sống. Hung Nô tưởng chuyện bắn nhạn có thật, sợ, bèn cho Tô Vũ về Hán. Về sau dùng điển ấy ví tin tức.
[140] Tranh tố nữ 素女 là bức tranh vẽ hình tố nữ. Tố nữ đây là chuyện nghệ thuật riêng nơi khuê phòng, làm cho chồng yêu khi chung chạ gối chăn. Đây dùng ý nói vua không yêu, không gối chăn chung chạ, nên biếng nhác không muốn ngắm tranh tố nữ.
[141] Nghiêm lâu 嚴樓 là nơi lầu tôn nghiêm của vua ở, có vẻ rất tôn nghiêm.
[143] Nước ở gần nước Nhật Bản, có thép tốt làm đao, gươm rất bén. Gươm đao bén gọi là Lưu Cầu.
[4, 144] Nơi cung phi ở.
[145] Là nơi cõi tiên. Gối du tiên bởi chữ “du tiên chẩm” 遊仙枕. Sách Khai Thiên di sự 開天遺事 chép việc trong niên hiệu Khai Thiên đời Đường rằng: “Nước Quy Tư có dâng vua một cái gối, sắc như ngọc mã não, khi gối ngủ thì chiêm bao chơi khắp các miền tiên, cõi tiên”. Vua Minh Hoàng đặt tên là du tiên chẩm.
[146] Nghĩa bóng chỉ vua.
[147] Nhớ tình xuân.
[148] Là nơi phong lưu dư dả.
[149] Xuân y 春衣 là áo đẹp, hoặc áo chầu triều của các quan và các phi, tần trong cung cấm. Thơ Đỗ Phủ: “Triều hồi nhật nhật điển xuân y” 朝回日日典春衣 (Mỗi ngày đi chầu về đem áo chầu đi thế để mua rượu).
[150] Bởi câu Đường thi: “Thuỷ lưu hoa tạ lưỡng vô tình” 水流花謝兩無情 (Nước trôi hoa rụng thảy vô tình).
[151] Hoa rụng trăng mờ tối.
[152] Buổi gần tối, chạng vạng. Sách Hoài Nam tử nói: Mặt trời lặn đến nơi Ngu Uyên 虞淵 là hoàng hôn 黃昏, đến nơi Mông Cốc 蒙谷 là định hôn 定昏.
[153] Cành cây ngô đồng 梧桐, chim phượng hoàng thường đậu, ví vua. Thơ Đỗ Phủ: “Bích ngô thê lão phụng hoàng chi” 碧梧棲老鳳凰枝 (Cành ngô bích là cành chim phượng đậu đã già rồi).
[154] Là sự thương phong vật mùa thu có vẻ tiêu điều ở non sông cây cỏ, kẽ văn sĩ thi ông thường cảm khái yêu mến. Thơ Đỗ Phủ: “Vạn lý bi thu thường tác khách” 萬里悲秋常作客 (Thương mùa thu thường làm khách xa muôn dặm).
[155] Phòng lẻ loi một mình.
[156] Tin tức ngóng trông, tăm hơi tin tức. Có nơi đọc là “vân mồng”.
[157] Lạnh lẽo.
[158] Phi huỳnh 飛螢 là con đom đóm bay.
[159] Có bản chép là “Khi bóng thỏ chênh vênh trước nóc”.
[160] Tiểu hầu, là đứa tớ gái nhỏ.
[161] Chim đỗ quyên, hay là đỗ vũ là con chim giống chim ò ho, tu hú, thường kêu suốt đêm ngày. Sách Hoa Dương quốc chí 華陽國志 chép: Vua Đỗ Vũ nước Thục mất nước chết hoá chim đỗ quyên. Thơ bà huyện Thanh Quan Qua đèo Ngang: “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc”.
[162] Một khúc hát tự than vãn đời người chậm trễ sự hanh thông. Chuyện Phạm Thận 范慎 ở Nam sử chép ông ấy mới 29 tuổi mà tóc bạc phơ, chẳng gặp thời vận, bèn đặt khúc Thương xuân 傷春 tự than mình.
[163] Sương khuê 霜閨 là nơi phòng đàn bà goá chồng ở.
[164] Hoa rụng.
[165] Thuý điện 翠殿 là nơi đền cung phi ở, thường màu thuý (xanh pha lục) như thuý lâu, lầu thuý. Thuý dịch nơi viện thuý. Thuý hoa cái kiệu vua đi v.v...
[166] Nơi cửa quyền, tức nơi nhà vua quan có oai quyền thì gọi là cửa quyền.
[167] Nơi cửa quyền nguội lạnh hẩm hiu, không có vẻ náo nhiệt.
[168] Có bản chép là “buồn tênh”.
[169] Là rơi rụng ra khỏi cành. Hoa gieo cành là hoa rụng. Hoa rụng có chữ “phiên hỗn hoa” 藩溷花, hoa rơi vào rảnh bùn nhơ. Nam sử chép chuyện Phạm Thận 范慎 nói với Cảnh Lăng vương 竟陵王 rằng: “Người sinh ở đời như cái hoa, khi sinh ra, cùng sinh rồi cùng nở, khi rụng thì có cái hoa may mắn bay vào nơi chiếu nệm, lầu đài, tức như vương (Cảnh Lăng vương), có hoa rủi rơi bay vào rãnh bùn nhơ như tôi đây vậy”. Ý nói người có may rủi khác nhau. Đây dùng hoa gieo cành bởi nghĩa chữ phiên hủ ấy.
[170] Cao lương 膏梁 là vị ăn ngon lành. Cao là mỡ, lương là gạo thứ ngon.
[171] Là sang trọng đủ sung sướng.
[172] Hoắc lê 藿藜 là thứ rau dền, rau nhiếp, ăn ngon, có thể đỡ đói, vị ăn của nhà nghèo.
[173] Gác ngang cây gỗ, cây tre làm cửa ngõ tầm, là nơi của người hèn. Kinh thi, thiên Hoàng môn: “Hoành môn chi hạ, Khả dĩ thê trì” 衡門之下,可以棲遲 (Ở chốn tấm thường bằng lẽ gỗ, đoạn tre cũng khá ở yên). Ý nói người ở ẩn.
[174] Bởi chữ “âu lộ” 鷗鷺, là loài chim cò, chim le le ở. Sách Liệt tử có chữ “âu lộ vong cơ” 鷗鷺忘機: chim âu chim lộ quên cả then máy. Ý nói loài chim ấy tự do không quan hệ với việc đời, và có chữ “âu minh” 鷗盟 là làm bạn trao lời hẹn ước với chim âu. Đây dùng cò con bởi nghĩa ấy. Ngoài Bắc cũng nói cò con là những sự đoàn tụ nhỏ của người mà có vẻ vui vầy. Như chơi cò con là chơi một nhóm người ít mà vui.
[175] Là những giọng hát bội dở, nghe buồn, nghĩa là không cởi ra mang vào những lốt vai tuồng vô ích dở dang trên sân khấu. Ý nói làm cung phi không xứng lòng thêm vô ích.
[176] Bởi chữ “thố ảnh”. Theo lời tục truyền, trong mặt trăng có con thỏ, con cóc. Vậy bóng thỏ là bóng trăng. Thiềm ảnh bóng con cóc, ngân thiềm cũng đều một nghĩa.
[177] Tiêu tao 蕭騷 là xơ xác đau thương (võ) kết bạn với một vẻ lẻ loi chếch mác.
[178] Tâm hoả 心火 là lửa lòng, nỗi uất hận như ngọn lửa đốt lòng.
[179] Là nét đôi mày vẽ như hình lá liễu yếu.
[180] Hồng băng 紅冰 giá đỏ, là nước mắt đỏ. Điển cung phi Tiết Linh Vân 節靈芸 đời Nguỵ Văn Đế có dung mạo tuyệt vời, ông Thái thú quận Thường Sơn là Cốc Tập 谷習 mua hằng nghìn lạng vàng dâng Nguỵ Văn Đế. Khi nàng từ biệt cha mẹ, khóc như mưa, lấy bình ngọc hứng, sau hoá ra khối băng đỏ (hồng băng).
[181] Là cái vẻ má hồng.
[182] Trà là trà uống, chuyên nước nhất là pha lần đầu đã thôi uống. Ý nói không có ai cùng uống nên mau chán. Lư Đồng đời Đường có bài Tẩu bút tạ Mạnh gián nghị ký tân trà: “Nhất oản hầu vẫn nhuận,
Nhị oản phá cô sầu, Tam oản sưu khô trường” 一碗喉吻潤,兩碗破孤悶,三碗搜枯腸 (Uống một chén thì cổ và họng thấm và nhuần, Uống hai chén thì sự buồn quạnh quẽ phá tan, Chén thứ ba dốc sạch nỗi lòng). Đây vì không phá nỗi buồn cô quạnh được nên chén thứ hai không uống.
[183] Ngày xưa dùng các thứ hương như: trầm hương, bài hương, tốc hương, kê cốt trầm hương, bạch đàn nhũ hương v.v... gọi là bách hoa hương tán nhỏ hoà với nước mía cất trong vịm sành, múc từng muỗng bạc nhỏ đốt trên cái giá đồng trong lò, trên viên than hầm, lò bằng đồng, nắp lò chạm hình con nghê, gọi là kim nghê 金猊 hoặc trong lò bằng đồng đen, chạm hình con vịt nằm khảm cái kim khí đẹp, gọi là bảo áp 寶鴨. Các nhà sang quý thường đốt trong ngày lạnh ở trong phòng ngủ, phòng khách. Hương đem đốt dồn mãi để mong rước vua, ngỡ vua đến cứ đốt dồn nhiều lần, nhưng vua vẫn không đến.
[184] Nghĩa là gần vua.
[185] Tức Khiên Ngưu. Sao Ngưu sao Nữ, Khiên Ngưu và Chức Nữ mỗi năm chỉ gặp nhau một lần.
[187] Có bản chép là “Thắm nào nhuộm được tơ hồng cho tươi”.
[188] Thượng uyển 上苑 là vườn hoa của vua. Thượng lâm 上林 cũng đồng nghĩa.
[189] Doành bởi chữ doanh 瀛 là một vùng nước. Nhâm 壬 là tên thần nước. Thơ Hàn Dũ 韓愈 có câu: “Nữ Đinh phụ Nhâm truyền thế hôn” 女丁婦壬傳世婚 (Nữ Đinh là vợ Nhâm đời tương truyền là vợ chồng). Lời chú thích của Đông Sơn Tiểu Liên 東山小蓮 rằng, con trai vua Huyền Minh 玄冥 là Nhâm Phu An 壬夫安, con gái họ Chúc Dung 祝融 là Đinh Dương 丁羊 đều là thần ở dưới nước. Thơ Tô Thức: “Nhâm công phi không Đinh nữ tàng” 壬公飛空丁女藏 (Nhâm công bay trên không Đinh nữ giấu mình). Thơ ấy vịnh cái thác. Chú nghĩa: Nhâm công là tên thần ở dưới nước cạn và im (chữ nhâm hoặc có lầm chữ giâm là im).
[13, 192] Là gối chăn chung chạ.
[190] Có bản chép là “khôn khuây”.
[191] Tai và mắt.
[193] Cửu hạn 久旱 là nắng hạn lâu ngày Giọt mưa cửu hạn là trời mưa khi đã nắng hạn lâu rồi mới được. Ý nói sự yêu đương của vua đã ban cho từ lâu rồi nay còn nhớ, còn mong.
[194] Là nơi vua ở, ngồi nơi chín tầng bệ cao, bệ là cái thềm. Các quan gọi là bệ hạ 陛下 dưới bệ, ý tôn kính nói nơi dưới bệ, không dám nói tận nơi vua. Người nhỏ gọi người lớn thì gọi là các hạ 閣下, túc hạ 足下: dưới gác lầu, dưới chân, ý tôn kính cao xa.
[195] Quần 裙 là cái quần, là một tấm hàng hoặc gấm quàng dưới hạ thể con gái đàn bà như cái váy. Có sáu tấm kết lại thành cái quần, không phải quần như của ta. Thoa 釵 là cái trâm giắt tóc có hai ngành bằng vàng. Phục sức củ phụ nữ.
[196] Đông phong 東風 chỉ mùa xuân, có gọi đông phu cũng như đông quân.
[197] Ví người con gái có nhan sắc như hoa đào. Thơ Thôi Hộ 崔護 đời Đường nhân ngày thanh minh đi thăm mộ, ghé vào xin chén nước trà của người gái đương đứng dưới cửa ngõ bên cây đào. Người gái mời chén trà và có ý nhìn Thôi Hộ bằng một vẻ hữu tình. Năm sau đi lễ thanh minh lại ghé thì không thấy người ấy. Hộ bèn đề một bài thơ: “Khứ niên kim nhật thử môn trung, Nhân diện đào hoa tương ánh hồng; Nhân diện chỉ kim hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu đông phong” 去年今日此門中,人面桃花相映紅;人面衹今何處去,桃花依舊笑東風 (Cửa này năm ngoái thấy bên trong, Vẻ thắm đào tươi yến má hồng; Nay chẳng thấy người đâu đó tá? Hoa đào còn cợt gió đông). Qua năm thứ ba, Hộ đi thanh minh lại ghé lần nữa nghe, cửa đóng trong nhà có tiếng khóc. Hỏi thăm mới được biết rằng người con gái ấy đã vì bài thơ của Hộ đề, mà đau tương tư, nay mới chết và chưa liệm. Hộ xin vào thăm, đến bên tử thi gọi to lên rằng: “Có Thôi Hộ đến đây”. Người chết tỉnh dậy. Chuyện chép ở Lệ tình tập 麗情集.
[198] Kim ốc 金屋 là nhà vàng, là một nhan sắc tuyệt vời, bởi điển Hán Vũ Đế khi còn làm thái tử, đang nhỏ, bà trưởng công chúa muốn gả con là A Kiều 阿嬌 cho đế, bèn chỉ A Kiều mà hỏi đế rằng có muốn A Kiều làm vợ chăng? Và hỏi Kiều có đẹp chăng? Đế đáp rằng nếu được A Kiều sẽ đúc cái nhà bằng vàng cho ở. Nay dùng điển nhà vàng ví sắc đẹp tuyệt thế. Hoặc như bà phi hậu có sắc đẹp.
[199] Bởi chữ “nguyệt lão” 月老, tức ông già trên cung trăng chuyên làm mối xe duyên cho các đôi nam nữ.
[200] Là sợi dây rất nhỏ, dễ đứt không bền, v.v... Câu này có bản chép là “Sao cho chỉ thắm mà ra tơ mành”.
[201] Tức động phòng 洞房, nơi buồng kín dùng bày lễ hợp cẩn 合卺 khi vợ chồng mới cưới về.
[202] Tịnh 並 là đôi, đế 蒂 là cái đế hoa, hai hoa cùng nở trên một đế, như sen một cọng nở hai hoa, hoa cúc, hoa lài một cọng nở hoa sinh đôi là điềm lành của sự vợ chồng đôi lứa. Hai ngọn đèn thắp cúng khi đầu lễ thành hôn, gọi là hoa chúc (đuốc hoa) ví như đôi hoa tịnh đế. Thơ nàng Tiểu Thanh 小青 đời Thanh có câu: “Nguyện tương nhất trích dương chi thuỷ, Hoá tác nhân gian tịnh đế liên” 願將一滴楊枝水,化作人間並蒂蓮 (Nguyền xin Phật Quan Âm cho một giọt nước nhiệm màu ở cành dương liễu để hoá thân nàng thành đôi hoa sen tịnh đế ở chốn nhân gian). Tiểu Thanh là một tài nữ bị làm vợ lẽ, bị vợ cả ghen giam chết khi 18 tuổi. Câu thơ này là khi nàng lễ Phật Quan Âm xin hoá kiếp làm sen tịnh đế, ý nói làm một vợ một chồng. Có bản chép là “Chòm hoa tịnh đế”.
[203] Là những hoạn quan thái giám chầu hầu vua. Đời xưa những đàn ông lại cái chọn vào chầu hầu nơi cung cấm gọi là hoạn quan, là phụ, tự và thái giám. Nước ta gọi là bõ là ông giám.
[204] Là sự thống trị thiên hạ của nhà vua như ngự quốc, những hành động của vua đều gọi là ngự. Các quan gọi vua là ngài ngự.
[205] Là một khí dụng ngày xưa dùng để đo thì gìờ tuy kiểu làm khác nhau, nhưng chẳng ngoại một cái bầu đựng nước dưới đáy xoi lỗ nhỏ cho nước chảy, trong bầu để đo thì giờ theo giọt nước chảy cạn lần đến mỗi dấu gạch làm một giờ, bên bầu có cái giá cắm thẻ, để hết một giờ ghi một thẻ. Cũng gọi là lậu hồ. đồng long hoặc dạ lậu.
[206] Là bóng con ngựa con, hoặc ngựa nhỏ mà mạnh, nghĩa bóng là bóng nắng. Bởi điển vua Tống Thái Tổ nói: “Nhân sinh nhất thế như bạch câu quá khích” 人生一世如白駒過隙 (Người sinh trong một đời như bóng ngựa trắng qua cửa sổ).
[208] Nghĩa bóng là những bà phi, hậu đời trước có đức hạnh tốt giúp vua trị nước như bà Thái Tỉ 太姒, Ấp Khương 邑姜 ngày xưa đời nhà Chu đã giúp vua trị nước có tiếng giỏi.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Gia Thiều » Cung oán ngâm khúc