10/05/2024 14:01Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Chiêu Dương mộ bạc

Tác giả: Ninh Tốn - 寧遜

Thể thơ: Ngũ ngôn cổ phong; Nước: Việt Nam; Thời kỳ: Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
Đăng bởi tôn tiền tử vào 26/01/2015 13:23

 

Phiên âm

Triêu phát Nhị Hà tân,
Mộ bạc Chương Dương độ.
Chương Dương thuỷ thanh liên,
Thảo, thu, yên, hà cổ.
Nhân tụng “Đoạt sáo[1]” thi,
Hồi tưởng Đông A[2] tộ.
Đông A Trùng Hưng[3] gian,
Nguyên binh tự phong vũ.
Tức Mặc[4] kim âu[5] thương,
Chiêu Lăng thạch mã[6] nộ.
Thao thao thực nhục nhân[7],
Ngột toạ diện như thổ
Hiền tài Hưng Đạo Vương,
Thân gia tổng bất cố.
Trừu đối[8], kiếm trung thành.
Vi kỳ ngộ công thủ.
Vận trù như Tử Phòng[9],
Thế thắng tự Tôn Vũ[10].
Nhất phiến hứa quốc tâm,
Bỉnh bỉnh anh vũ trụ.
Trung nghĩa văn phong khởi,
Mưu lục canh sơ phụ.
Ác cam[11] hoài báo ân,
Mại thán[12] thệ ngự vũ.
Tề nhương sát Thát[13] tì,
Đại triển cầm Hồ[14] thủ.
Tảo thanh Ô Mã[15] trần.
Tùng thác cựu cương vũ.
Mông Cổ liễm binh quỷ,
Bất cảm hướng “đồng trụ[16]”.
Trần gia lại dĩ hưng,
Sơn hà phựu như cố.
Nãi tư: bang kỳ xương[17],
Tuyền chuyển hệ hiền phụ.
Hiền phụ năng thành công,
Tín nhiệm do nhân chủ,
Giao phu tại binh tố.
Tự cổ hoạch ngã tâm,
Cảnh mệnh bút phú.

Dịch nghĩa

Buổi sáng, thuyền xuất phát từ bến Nhị Hà,
Buổi chiều, đậu lại ở bến Chương Dương.
Nước Chương Dương gợn sóng xanh,
Cây cỏ, khói, ráng, sắc xưa.
Nhân đọc câu thơ “Đoạt sáo”,
Bỗng nghĩ đến cơ nghiệp nhà Đông A.
Khoảng niên hiệu Trùng Hưng,
Quân Nguyên như gió bão ập sang.
Âu vàng Tức Mặc bị thương tổn,
Ngựa đá Chiêu Lăng phải tức giận.
Trong triều đình, đầy dẫy những người ăn thịt,
Cứ ngồi trơ như phỗng, mặt xám như đất.
Hiền tài thay! Chỉ một Hưng Đạo Vương,
Thân mình, nhà mình, đều không nghĩ đến.
Giật bỏ bịt sắt đầu gậy giải tấm lòng trung thành,
Ngồi đánh cờ vây, biết rõ thế công thủ.
Vận dụng mưu lược, giống Tử Phòng nhà Hán,
Nắm trước phần thắng tựa Tôn Vũ đời Xuân Thu.
Một tấm lòng hiến thân cho nước,
Rực rỡ chói sáng cả vũ trụ.
Người trung nghĩa nghe phong độ mà đứng dậy
Người mưu trí, dũng lực cũng đua nhau phụ theo.
Tay nắm trái cam, Quốc Toản nặng lòng báo ân,
Làm nghề bán than, Khánh Dư thề chống xâm lược.
Cánh tay thích chữ sát Thát cùng giương cao,
Sách lược “cầm Hồ” triển khai rộng khắp.
Quét sạch bụi nhơ Ô Mã Nhi,
Mở lại cương vực nước nhà xưa kia,
Quân Mông Cổ rút chạy hết,
Không dám hướng về phía “cột đồng nữa.
Nhà Trần nhờ đó được phục hưng,
Non sông lại nguyên vẹn như cũ.
Mới biết: một quốc gia hưng thịnh,
Cuộc xoay chuyển, hệ trọng ở người tôi hiền tài.
Người tôi hiền tài thành công được,
Là do sự tín nhiệm của vua chúa.
Việc tín nhiệm ấy phải thường nhật.
Ngẫm việc xưa, thật đúng với lòng ta,
Cảm cảnh, cất bút viết nên mấy vần.
Lời tự: “Long Bút chu bạc Chương Dương, thích tụng ‘Đoạt sáo’ chi thi, nhân tư Trần Trùng Hưng gian, Nguyên binh nhập khấu, tài đắc nhất Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn vị quốc tận lực, vị nghĩa phân xướng, toại năng tảo thanh Hồ trần, khắc phục cương thổ. Thâm niệm: Cổ kim hưng vong, toàn lại nhậm nhân nhất sự, cảm hứng nhị thập vận.” (Chiều ấy, Long Bút đậu thuyền ở bến Chương Dương, nhân đọc câu thơ “Đoạt giáo” bỗng nghĩ khoảng niên hiệu Trùng Hưng nhà Trần, quân Nguyên sang xâm lược, may được một Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn vì nước hết sức, vì nghĩa khởi xướng nên đã quét sạch bụi Hồ, khôi phục được đất nước. Nghĩ sâu thấy rằng xưa nay, nước nhà hưng hay suy, toàn do ở việc “dùng người”. Nhân cảm hứng làm bài thơ hai mươi vần.)

Bến Chương Dương thuộc xã Chương Dương, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Nơi đây Trần Quang Khải và Trần Hưng Đạo đã phá tan quân Nguyên, khôi phục kinh thành Thăng Long.

[1] Sau khi thắng quân Nguyên, Trần Quang Khải có làm một bài thơ ngắn Tụng giá hoàn kinh sư (Phò giá về kinh), trong đó có câu: “Đoạt sáo Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan” (Đoạt lấy giáo quân Nguyên ở bến Chương Dương, Bắt giặc Hồ ở cửa quan Hàm Tử).
[2] Theo lối chiết tự, chữ Trần còn có thể đọc là Đông A (vì được ghép từ hai chữ Đông 東 và A 阿). Khi nhà Trần thành công trong công cuộc chống Nguyên, khí thế chiến đấu của quân dân nhà Trần còn được gọi là “hào khí Đông A”.
[3] Niên hiệu của vua Trần Nhân Tông.
[4] Một xã thuộc phủ Thiên Trường, lộ Sơn Nam, quê gốc của nhà Trần.
[5] Là cái bồn bằng đồng hay bằng vàng, tượng trưng cho một giang sơn toàn vẹn và vững bền. Sau nó trở thành một từ thường dùng để chỉ cơ đồ của một nước.
[6] Con ngựa đá ở lăng vua Trần Thái Tông. Tương truyền, sau khi đại thắng quân Nguyên, người ta thấy chân các ngựa đá đứng trước lăng trên đều lấm bùn, nên đồn rằng các ngựa đá (là vật vô tri) đều đã đi đánh trận. Việc đến tai vua Trần Nhân Tông. Nhân lúc vui mừng, vua liền ứng khẩu ngâm hai câu thơ rằng: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim âu” (Xã tắc hai phen bon ngựa đá, Non sông nghìn thuở vững âu vàng).
[7] Nghĩa bóng chỉ những viên quan bất tài, chỉ biết ngồi không hưởng nhiều bổng lộc.
[8] Giật bỏ bịt sắt đầu gậy. Trần Quốc Tuấn khi đi hầu vua, thường chống cây gỗ, đầu dưới có bịt sắt nhọn. Ngại có người nghĩ ông sẽ dùng nó để ám hại nhà vua (vì lời trăn trối của cha là Trần Liễu, ông Liễu có mối thù riêng với Trần Thái Tông, em ruột ông), nên ông vứt bỏ cái bịt sắt ấy đi. Câu này ở sách Thơ văn Ninh Tốn ghi là “Trừu thuần hiện trung thành”.
[9] Tức Trương Lương, có tài mưu lược, giúp Lưu Bang lập nên cơ nghiệp nhà Hán.
[10] Người đời Xuân Thu, giỏi binh pháp, giúp vua Ngô làm bá chủ chư hầu.
[11] Cầm trái cam, nhắc chuyện Trần Quốc Toản vì còn ít tuổi, không được dự hội bàn việc quân cơ, ông lấy làm hổ thẹn, bực tức, tay cầm quả cam tự bóp nát lúc nào không hay.
[12] Bán than, nhắc chuyện tướng Trần Khánh Dư phạm tội, bị tước hết chức tước, phải về Chí Linh làm nghề bán than.
[13] Thát đát (Tatar), ở trong bài dùng để chỉ quân Nguyên.
[14] Bắt giặc Hồ, chỉ quân Nguyên.
[15] Tức Ô Mã Nhi, là một kiện tướng của quân Nguyên, bị Hưng Đạo Vương bắt sống ở trận Bạch Đằng.
[16] Là cây cột đồng do tướng Mã Viện đời nhà Hán sai dựng để phân định địa giới giữa Trung Quốc và nước Việt.
[17] Câu này ở sách Thơ văn Ninh Tốn chép là “Nãi tri bang kỳ xương”.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Ninh Tốn » Chiêu Dương mộ bạc